Phần 2: Cơ hội để Việt Nam trở thành một hình mẫu phát triển hậu Covid-19

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
VietTimes – "Dĩ nhiên, Việt Nam sẽ có vị trí và tiếng nói quan trọng hơn trên vũ đài thế giới. Nhưng uy tín, giá trị của Việt Nam không phải chỉ ở mặt đó", GS. Trần Văn Thọ.

Đọc phần 1: Để Việt Nam thành nước có thu nhập cao năm 2045: Những việc cần làm ngay!

Vị Giáo sư kinh tế hiện là thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và từng là Ủy viên chuyên môn trong Hội đồng kinh tế của Thủ tướng Nhật Bản này hình dung: "Trong thời đại mới với khả năng đại dịch sẽ tái phát, nếu Việt Nam xây dựng được một đất nước theo tư duy mới, mô hình mới và trên cơ sở một xã hội nhân văn thì người Việt Nam sẽ hạnh phúc hơn và thế giới sẽ tham khảo mô hình phát triển của ta".

GS. Trần Văn Thọ phác họa với VietTimes về bức tranh thế giới đầy bất định: Hiện nay chúng ta chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt đại dịch COVID-19. Thế giới sẽ bước vào giai đoạn Hậu Covid hay thế giới sẽ phải sống chung với Covid?

Phân tích về xu hướng chuyển đổi số, tự động hóa trong các mặt kinh tế, xã hội là không thể đảo ngược và sẽ càng được thúc đẩy mạnh mẽ sau biến cố Covid-19, ông Thọ cho rằng Việt Nam sẽ chịu áp lực trực diện trong việc đảm bảo việc làm cho một đất nước 100 triệu dân với nền tảng đi lên từ nông nghiệp.

Tuy nhiên, với thế và lực ngày càng được củng cố, GS. Trần Văn Thọ tin tưởng Việt Nam có triển vọng phát triển tích cực và sẽ vào nhóm G20 vào khoảng năm 2045.

Giáo sư Trần Văn Thọ. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Giáo sư Trần Văn Thọ. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Việt Nam sẽ có vị trí và tiếng nói quan trọng hơn trên vũ đài thế giới

- Trong báo cáo tổng kết kinh tế Việt Nam 2020, Ngân hàng Thế giới nhận định nếu quản lý tốt các rủi ro, Việt Nam sẽ có cơ hội để nổi lên mạnh mẽ sau khủng hoảng COVID-19. Quan điểm của Giáo sư thế nào, thưa ông?

GS. Trần Văn Thọ: Công cuộc chống đại dịch Covid-19 ở Việt Nam diễn ra một cách sống động, ngoạn mục và đưa đến kết quả làm thế giới ngạc nhiên. Thành công trong chống dịch làm cho hình ảnh Việt Nam là nơi an toàn cho sinh hoạt và hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Đúng vào lúc này, tình hình chính trị, kinh tế thế giới thay đổi làm chuyển dịch dòng chảy đầu tư trực tiếp (FDI) từ Trung Quốc sang các nước khác.

Do đó, Việt Nam đang có cơ hội thu hút các nguồn lực về tư bản, công nghệ để đẩy mạnh phát triển.

Kinh tế Việt Nam đã phụ thuộc nhiều vào FDI nên hiện nay cần chọn lựa những dự án tốt, có công nghệ cao, có sức lan tỏa, có sức liên kết với doanh nghiệp trong nước. Chủ động đón thời cơ này Việt Nam sẽ nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn.

Hầu như các dự báo dài hạn đều cho thấy Việt Nam sẽ phát triển với tốc độ cao hơn nhiều nước và vào khoảng năm 2045 sẽ lọt vào nhóm 20 nước (G20) có nền kinh tế lớn.

Việt Nam sẽ không quá tập trung vào hai thành phố lớn như hiện nay mà sẽ phân tán đến nhiều thành phố cỡ trung và nhỏ ở khắp nước. Ảnh: Internet.

Việt Nam sẽ không quá tập trung vào hai thành phố lớn như hiện nay mà sẽ phân tán đến nhiều thành phố cỡ trung và nhỏ ở khắp nước. Ảnh: Internet.

Tôi cũng nghĩ là khả năng đó rất cao. Dân số nước ta sắp đạt 100 triệu. Hiếm có nước nào đông dân như thế mà có sự thống nhất cao về văn hoá, ngôn ngữ và hầu như không có mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, lại nằm giữa vùng phát triển năng động nhất thế giới.

Một nước có các tính chất như vậy rất dễ phát triển thành một nước tiên tiến.

Dĩ nhiên, Việt Nam sẽ có vị trí và tiếng nói quan trọng hơn trên vũ đài thế giới. Nhưng uy tín, giá trị của Việt Nam không phải chỉ ở mặt đó.

Trong thời đại mới với khả năng đại dịch sẽ tái phát, nếu Việt Nam xây dựng được một đất nước theo tư duy mới, mô hình mới và trên cơ sở một xã hội nhân văn thì người Việt Nam sẽ hạnh phúc hơn và thế giới sẽ tham khảo mô hình phát triển của ta.

- Thời đại mới hậu COVID-19 như Giáo sư vừa đề cập sẽ có những đặc điểm gì?

GS. Trần Văn Thọ: Hiện nay chúng ta chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt đại dịch COVID-19. Thế giới sẽ bước vào giai đoạn Hậu Covid hay thế giới sẽ phải sống chung với Covid? Dù tính bất xác định còn cao, chưa biết tình hình sẽ triển khai theo hướng nào, nhưng có hai điều hầu như chắc chắn.

Hiện nay chúng ta chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt đại dịch COVID-19. Ảnh: Internet.

Hiện nay chúng ta chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt đại dịch COVID-19. Ảnh: Internet.

Một là, dù đại dịch lần này có thể khắc phục nhưng trong tương lai rất có thể sẽ xảy ra các nạn dịch khác. Cho đến nay loài người đã chứng kiến 4 lần đại dịch (thế kỷ 14, thế kỷ 15, năm 1918 và 2020) và nhiều lần khác với quy mô nhỏ hơn. Do đó, ngay từ bây giờ chúng ta phải chủ động thiết kế một xã hội có thể sống chung với dịch.

Hai là, qua đại dịch lần này chúng ta thấy được thế nào là một xã hội nhân văn, thế nào là cuộc sống chất lượng cao, một phương thức làm việc hợp lý, v.v..

Tổng hợp các yếu tố liên quan hai điểm trên, chủ động phác họa một xã hội lý tưởng, thích nghi với khả năng dịch bệnh tái phát và dựa trên những thay đổi về công nghệ, có thể nêu ra viễn ảnh của thế giới trong tương lai như sau:

Thứ nhất, tính chất “tập trung” của hoạt động kinh tế, xã hội có hiệu quả làm tăng hiệu suất nhưng sẽ phải thay đổi để đối phó với dịch bệnh. Đô thị hóa, tập trung dân số sẽ chững lại hoặc phân tán về các địa phương. Trong tương lai, “tập trung vừa phải”, qui mô vừa phải sẽ là hình mẫu của đô thị.

Thứ hai, phương thức làm việc sẽ thay đổi. Sẽ ngày càng có nhiều công việc, nhiều người làm việc tại nhà. Trên phạm vi quốc tế, người ở nước này có thể quản lý công việc tại nước khác, làm giảm nhu cầu di chuyển. Công nghệ thông tin, kỹ thuật số phát triển giúp cho phương thức làm việc tại gia, tại nơi mình ở thực hiện dễ dàng.

Thứ ba, trong mùa có dịch, cùng với số lượng lao động làm việc tại gia ngày càng đông, người lãnh lương hưu, người được người thân phụ dưỡng và nhiều người khác sẽ sinh hoạt ở nhà. Nhưng xã hội vẫn phải cần những người lao động làm việc ở bệnh viện và các cơ sở sản xuất.

Đó là những lao động thuộc loại thiết yếu như bác sĩ/nhân viên y tế, lao động sản xuất thực phẩm, nhân viên làm việc trong siêu thị, trong hoạt động lưu thông, giao thông, chuyên chở. Đó là những người dấn thân vì cộng đồng, xã hội cần có biện pháp khích lệ và biết ơn họ.

Thứ tư, trong thời đại phải sống chung với dịch bệnh, sẽ có nhiều người do tính chất của nghề nghiệp họ không thể làm việc tại gia nhưng không thuộc loại lao động thiết yếu nói ở trên nên phải chịu thất nghiệp hoặc thu nhập rất thấp. Ngoài ra, để đối phó với dịch bệnh, khuynh hướng dùng robot để thay thế lao động sẽ mạnh hơn nữa, số người thất nghiệp sẽ tăng hơn.

Trước khi có đại dịch, công ty tư vấn McKinsey đưa ra một dự báo năm 2017 là cho đến năm 2030 sẽ có độ 60% trong tổng số các ngành nghề sẽ bị ảnh hưởng vì tự động hóa, khoảng 375 triệu người sẽ phải tự đào tạo hoặc được đào tạo lại để chuyển nghề.

Sau khi đại dịch lan truyền, vào tháng 6/2020, McKinsey lại thực hiện cuộc điều tra đối với 800 lãnh đạo doanh nghiệp ở 9 nước phát triển và mới nổi, kết quả cho thấy khuynh hướng tự động hóa (automation) và số hóa (digitization) sẽ được tiến hành mạnh mẽ hơn và cơ cấu cung cầu lao động sẽ thay đổi mạnh.

Các công ty sẽ giảm lao động chính thức, gắn kết lâu dài, mà thay vào đó tăng lao động làm khoán ngắn hạn và lao động đồng thời làm việc cho nhiều công ty theo các nhu cầu khác nhau.

Nhìn chung, trong dài hạn các nước phải đối phó bằng các chính sách đào tạo lại lao động, phát triển các ngành thu hút hút lao động mới, v.v. nhưng sẽ không tránh được tình trạng làm cho nhiều người phải rớt xuống dưới giới tuyến nghèo.

Chúng ta phải nghĩ đến biện pháp tái phân phối thu nhập để cứu giúp những lao động không thiết yếu và người thất nghiệp do công nghệ robots gây ra. Chẳng hạn nhà nước đưa ra chính sách cung cấp thu nhập cơ bản (basic income) cho tất cả mọi người ở dưới giới tuyến nghèo.

Thứ năm, thực phẩm và hàng hóa liên quan y tế sẽ trở thành thiết yếu hơn trước. Vì an ninh quốc gia, các nước sẽ ngày càng ưu tiên cung cấp cho các nhu yếu phẩm nầy. Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa ưu tiên nước mình mà một số nước gần đây đã áp dụng sẽ có khuynh hướng mạnh hơn, ít nhất là đối với những sản phẩm thiết yếu, liên quan an ninh quốc gia.

Thứ sáu, cùng với điểm thứ năm vừa nói, nhiều yếu tố khác cũng làm cho khuynh hướng toàn cầu hóa yếu. Nói chung kinh tế các nước gặp khó khăn sẽ không tích cực trong hội nhập.

Từ sau khủng hoảng tiền tệ thế giới năm 2008, khuynh hướng toàn cầu hóa đã chững lại. Các chỉ tiêu chính như tỉ lệ của xuất khẩu hoặc kim ngạch đầu tư trực tiếp (FDI) trên GDP toàn cầu đã giảm nhiều vào năm 2017, so với năm 2007.

Kinh tế Việt Nam đã phụ thuộc nhiều vào FDI nên hiện nay cần chọn lựa những dự án tốt, có công nghệ cao, có sức lan tỏa, có sức liên kết với doanh nghiệp trong nước. Ảnh: Internet.

Kinh tế Việt Nam đã phụ thuộc nhiều vào FDI nên hiện nay cần chọn lựa những dự án tốt, có công nghệ cao, có sức lan tỏa, có sức liên kết với doanh nghiệp trong nước. Ảnh: Internet.

Dịch bệnh Corona càng khiến cho khuynh hướng toàn cầu hoá yếu hơn khi lưu thông hàng hóa, dịch chuyển lao động bị hạn chế. Đặc biệt lao động giản đơn di chuyển phải tập trung tại các cơ sở sản xuất nên dễ lây bệnh.

Để tránh rủi ro đó, các nước thiếu lao động sẽ tích cực dùng người máy trong những lĩnh vực có thể dùng được thay vì nhập khẩu lao động.

Công nghệ thông tin trong gần 30 năm qua đã thúc đẩy toàn cầu hóa (vì giảm chi phí kết nối quốc tế, chi phí di chuyển của chuyên viên, quản lý trên qui mô toàn cầu) nhưng dưới ảnh hưởng của đại dịch bây giờ sẽ chuyển sang giai đoạn làm yếu toàn cầu hóa. Các công nghệ như telepresence (thúc đẩy hiện diện từ xa) sẽ làm cho các dịch vụ, quản lý có thể thực hiện từ xa, không cần di chuyển lao động.

Ngoài ra, trước sự trỗi dậy và tham vọng làm bá chủ thế giới của Trung Quốc, không chỉ có Mỹ mà nhiều nước khác như Úc, Nhật ngày càng nhấn mạnh an ninh kinh tế làm cho hệ thống mậu dịch quốc tế bị ảnh hưởng, khuynh hướng bảo hộ mậu dịch mạnh hơn.

Khuynh hướng hạn chế xuất khẩu những mặt hàng thiết yếu liên quan an ninh lương thực, an ninh y tế sẽ mạnh lên.

Cần phát huy lợi thế nông nghiệp

- Giáo sư đã phác hoạ những đặc điểm của thế giới hậu Covid, nơi loài người phải chấp nhận sống chung với đại dịch và nhiều quy tắc, trật tự và lề lối vận hành sẽ thay đổi. Trong một thế giới như vậy, Việt Nam cần phải định hình lại tư duy phát triển phù hợp với bối cảnh mới như thế nào?

GS. Trần Văn Thọ: Theo tư duy cũ, con đường phát triển của một nước chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và sau đó sang thời đại hậu công nghiệp trong đó các ngành dịch vụ giữ vai trò chủ đạo. Trong công nghiệp lại có các giai đoạn từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng và công nghiệp có hàm lượng chất xám, hàm lượng trí tuệ cao.

Trong quá trình phát triển đó, đô thị hóa và tập trung dân số, tập trung hoạt động kinh tế ngày càng mạnh.

Theo suy nghĩ này thì Việt Nam hiện nay đang ở trình độ giữa thu nhập trung bình thấp và trung bình cao, công nghiệp đang chuyển từ nhẹ sang nặng, và độ 15 năm nữa sẽ dần dần bước qua thời đại hậu công nghiệp.

Việt Nam cần phát huy lợi thế nông nghiệp hơn trước. Ảnh: Internet.

Việt Nam cần phát huy lợi thế nông nghiệp hơn trước. Ảnh: Internet.

Tuy nhiên thời đại sống chung với Covid cùng với sự lớn mạnh của kinh tế số sẽ làm đảo lộn trật tự phát triển của tư duy cũ. Các quan hệ như tập trung và phân tán, đô thị và nông thôn, công nghiệp và nông nghiệp, nội địa và toàn cầu hóa, truyền thống và hiện đại sẽ chuyển theo hướng khác hoặc có điều chỉnh so với những gì đã thấy trong quá khứ.

Theo đó, trong tư duy phát triển mới, nông, công nghiệp và dịch vụ hầu như phải đồng thời phát triển dù trong giai đoạn trước mắt công nghiệp hóa phải được chú trọng.

Lý do là thế giới có khả năng thiếu lương thực, Việt Nam cần phát huy lợi thế nông nghiệp hơn trước. Mặt khác, do sản xuất công nghiệp có khuynh hướng tự động hóa và việc xuất khẩu lao động sẽ không nhiều như trước, ta phải phát triển các ngành dịch vụ nữa mới bảo đảm công ăn việc làm cho lực lượng lao động của một nước có dân số hơn 100 triệu.

Vấn đề đô thị hóa và phát triển nông thôn phải được đặt lại theo hướng mới: do phải tránh tập trung vì phòng ngừa đại dịch, ta phải phát triển nông nghiệp kết hợp với công nghiệp thực phẩm và xây dựng hạ tầng kinh tế và văn hóa, nông thôn sẽ giữ lại một lực lượng lao động và dân số nhất định.

Việt Nam sẽ không quá tập trung vào hai thành phố lớn như hiện nay mà sẽ phân tán đến nhiều thành phố cỡ trung và nhỏ ở khắp nước.

Công nghệ thông tin, kỹ thuật số, tự động hóa là trọng tâm của thời đại sắp tới làm thay đổi phương thức lao động và có thể làm nhiều người thất nghiệp. Thêm vào đó, đại dịch sẽ làm tăng thành phần yếu thế trong xã hội.

Nhà nước sẽ phải quan tâm đến việc bảo đảm năng lực tối thiểu về kỹ thuật số (digital minimum) cho mọi người dân, tiến hành các biện pháp chia sẻ công việc, và bảo đảm thu nhập cơ bản cho tầng lớp khó khăn.

- Trước viễn cảnh tự động hoá và số hoá sẽ tác động mạnh mẽ đến cơ cấu cung cầu lao động, nhiều ngành nghề sẽ biến mất, Việt Nam cần phải chuẩn bị ra sao?

Công nghệ thông tin, kỹ thuật số, tự động hóa là trọng tâm của thời đại sắp tới làm thay đổi phương thức lao động và có thể làm nhiều người thất nghiệp. Ảnh: Internet.

Công nghệ thông tin, kỹ thuật số, tự động hóa là trọng tâm của thời đại sắp tới làm thay đổi phương thức lao động và có thể làm nhiều người thất nghiệp. Ảnh: Internet.

GS. Trần Văn Thọ: Xu thế tự động hóa bắt đầu từ giữa thập kỉ vừa qua sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ, không thể đảo ngược được. Mặt khác, để tránh rủi ro bệnh dịch lan truyền khi có tập trung lao động, các nước thiếu lao động cũng sẽ tìm cách đẩy mạnh tự động hóa và hạn chế nhập khẩu lao động.

Trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ trực diện áp lực tạo công ăn việc làm cho một đất nước 100 triệu dân nên sẽ phải nghiên cứu một hình thức chia sẻ công việc (work sharing) trong đó người có công việc giảm giờ làm và giảm thu nhập để nhiều người khác có thể tham gia lao động.

Giải quyết tốt việc làm cũng sẽ làm cho Việt Nam sớm chấm dứt xuất khẩu lao động, một biểu hiện của giai đoạn phát triển thấp và không đáng tự hào. Ngoài ra, cần biện pháp vinh danh và đãi ngộ tốt hơn đối với lao động thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực y tế. Việt Nam cũng cần nghiên cứu từng bước áp dụng chính sách bảo đảm thu nhập cơ bản (basic income) cho tất cả những người bị rớt xuống dưới giới tuyến nghèo.

Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực phải theo hướng tạo ra những người lao động có khả năng tự học, tự thích nghi được với thay đổi của công nghệ và nhu cầu trên thị trường lao động. Trong thời đại công nghệ 4.0, nói về người lao động trung cấp trở lên, chỉ cần tạo cho họ có khả năng đọc tiếng Anh, sử dụng máy tính, và quen với việc truy cập Internet (chú ý đến việc tạo điều kiện để mọi người có năng lực tối thiểu về kỹ thuật số). Nhưng đó mới chỉ là năng lực cơ bản. Thêm vào đó, cần đào tạo cho họ khả năng suy luận để phân tích, giải quyết vấn đề, và có văn hóa để làm việc có trách nhiệm và ứng xử tốt với người khác.

(còn nữa)