Ông Nguyễn Xuân Thành, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Chính phủ, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright
Ông Nguyễn Xuân Thành, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Chính phủ, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright

E-magazine Kinh tế Việt Nam "năm Covid thứ nhất" và triển vọng tăng trưởng 7% cho năm 2021

VietTimes – Là điểm sáng của thế giới về kiểm soát dịch Covid-19, nền kinh tế Việt Nam trong "năm Covid thứ nhất (2020)" vẫn bị tác động mạnh, như đánh giá của ông Nguyễn Xuân Thành là xấu nhất kể từ thời đổi mới. Nhưng triển vọng 2021 lại lạc quan.


Ông Nguyễn Xuân Thành, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright vừa có chia sẻ với VietTimes về bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2020 - năm mà như cách gọi của vị chuyên gia này là "năm Covid thứ nhất".

Ông đồng thời cũng đưa ra những phân tích và dự báo về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021.

PV Trường Minh: Năm 2020 đã sắp kết thúc. Ông có thể đánh giá như thế nào về kinh tế toàn cầu trong năm Covid thứ nhất này?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Có thể nói, chúng ta đã sống gần qua năm Covid thứ nhất với nhiều điều chưa từng có trong lịch sử. Trong 3 quý của năm 2020, thế giới đã trải qua đợt suy giảm kinh tế lớn chưa từng có do tác động của đại dịch Covid-19. Hầu hết các nước trên thế giới đều tăng trưởng âm liên tiếp vào quý 2 và 3. Việt Nam có thể nói là nước duy nhất cả ba quý vẫn có tăng trưởng dương.

Tuy nhiên, điểm khác biệt so với các cuộc khủng hoảng toàn cầu trước đây là hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng vẫn đứng vững nhờ một quá trình tái cơ cấu hệ thống sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Do đó, giới đầu tư vẫn có niềm tin, dẫn đến các thị trường chứng khoán chỉ trồi sụt chứ không suy giảm. Các chính phủ cũng đã sử dụng mạnh mẽ công cụ chính sách tài khóa bao gồm tăng chi ngân sách cho người người dân và doanh nghiệp, trong khi đó các ngân hàng trung ương quay lại bơm tiền vào nền kinh tế.

Theo tôi, với cơ sở tài chính ổn định, nền kinh tế Trung Quốc bình thường trở lại và những tin tốt lành về vaccine hiện nay, kinh tế thế giới có khả năng phục hồi từ quý 2 năm sau.

PV: Là một nền kinh tế mở, Việt Nam thường xuyên chịu tác động mạnh mẽ của các cú sốc bên ngoài. Ông nhìn nhận thế nào về kinh tế Việt Nam trong năm 2020?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Như nhiều nền kinh tế khác, cho dù Việt Nam kiểm soát tốt dịch Covid-19 ở mức độ nhất định nhưng năm nay kinh tế là xấu, có thể được gọi là xấu nhất kể từ thời kỳ bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế.

Tốc độ tăng trưởng đã giảm mạnh từ 7% năm 2019 xuống còn 3,8% vào quý 1, 0,4% vào quý 2 và 2,6% vào quý 3. Theo tính toán của tôi, tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ đạt mức 2,5% cho cả năm 2020, mức thấp nhất trong vòng 30 năm qua.

Do tác động của dịch Covid-19, Việt Nam phải hứng chịu cả hai cú sốc về cung và cầu. Cú sốc kép phía cung dẫn tới sản xuất sụt giảm khi các cơ sở sản xuất phải đóng cửa vì cách ly xã hội và chuỗi cung ứng bị xáo trộn.

Tuy nhiên, các cơ sở dịch vụ bị tác động mạnh nhất vì đợt cách ly xã hội kéo dài hồi tháng 3, tháng 4 còn các nhà máy sản xuất công nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều.

Chuỗi cung ứng không bị xáo trộn quá tiêu cực vì các hoạt động vận chuyển hàng hoá, nguyên liệu đầu vào của Việt Nam với các đối tác thương mại, đặc biệt là với Trung Quốc và Hàn Quốc không bị ngưng trệ.

Tác động của Covid đối với Việt Nam biểu hiện rõ nhất có lẽ là cú sốc kép phía cầu. Đây là năm đầu tiên tiêu dùng của dân cư giảm do người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu khi thu nhập thực tế giảm mạnh bởi khủng hoảng.

Tuy nhiên, điểm sáng là xuất khẩu và đầu tư công bù đắp cho suy giảm tiêu dùng của người dân và sự tăng trưởng chậm của đầu tư tư nhân.

Chưa bao giờ đầu tư công lớn như năm nay. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện 9 tháng vừa qua ước tính đạt hơn ba trăm ngàn tỉ đồng, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020.

Nhưng theo tôi, xuất khẩu có lẽ là ghi điểm ấn tượng nhất. Khi Covid mới xảy ra, ai cũng lo ngại xuất khẩu của Việt Nam sẽ sụt giảm mạnh khi các thị trường nước ngoài chao đảo.

Nhưng trên thực tế xuất khẩu các mặt hàng điện tử, máy móc thiết bị và nội thất tăng trưởng ấn tượng, bù đắp cho mức sụt giảm các ngành hàng xuất khẩu truyền thống như may mặc, giày dép, thuỷ sản.

Xuất khẩu là điểm sáng của kinh tế Việt Nam năm 2020.
Xuất khẩu là điểm sáng của kinh tế Việt Nam năm 2020.

Đúng là quá trình hội nhập hơn 30 năm qua đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam các thị trường xuất khẩu vô cùng đa dạng, nên thị trường này giảm thì thị trường khác lại tăng. Trong năm nay, khi xuất khẩu vào các thị trường ASEAN và EU suy giảm đáng kể thì xuất khẩu vào Hoa Kỳ và Trung Quốc lại vẫn tăng mạnh.

Thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn tốt là vì nền kinh tế này đã tăng trưởng trở lại ngay từ quý 2. Còn với Hoa Kỳ, các mặt hàng tăng trưởng mạnh là những mặt hàng đang tiếp tục hưởng lợi từ chiến tranh thương mại.

PV: Vậy ông đánh giá thế nào về triển vọng hồi phục của kinh tế Việt Nam?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Kinh tế Việt Nam thực ra đã phục hồi từ quý 3 năm nay. Tăng trưởng trong quý 4 sẽ còn tốt hơn. Du lịch và vận tải vẫn suy giảm mạnh so với trước Covid. Sức mua tiêu dùng nội địa vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.

Đến cuối năm nay, hầu hết hoạt động kinh tế nội địa sẽ phục hồi trợ lại so với trước Covid.

Tuy nhiên, sự phục hồi của cả nền kinh tế vẫn phải đợi đến quý 2 sang năm khi đi lại quốc tế có thể nối lại nhờ vắc – xin được phân phối. Cho dù tỷ lệ thất nghiệp cao, phá sản doanh nghiệp tăng cao dẫn đến tăng nợ xấu, nhưng hệ thống ngân hàng vẫn đứng vững.

Trên cơ sở đó, tăng trưởng kinh tế năm 2021 có thể đạt 7%.

PV: Gần đây, Mỹ đã bắt đầu tiến hành điều tra cơ chế quản lý tỉ giá của Việt Nam. Điều này sẽ tác động như thế nào đến triển vọng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Thặng dư thương mại hàng hoá của Việt Nam với Mỹ trong 10 tháng đầu năm 2020 đã là 50,9 tỉ USD, theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam. Trong khi phía Mỹ ước tính con số thâm hụt thương mại với Việt Nam là 56 tỉ USD.

Chính vì vậy, Mỹ đang gây sức ép rất lớn lên Việt Nam. Họ đã đi từ cáo buộc tới điều tra cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam. Nếu Mỹ kết luận Việt Nam thao túng tỷ giá để giữ đồng tiền thấp hơn giá trị thực thì đó sẽ là các căn cứ để Bộ Thương mại và Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ có thể đề xuất các biện pháp trừng phạt.

Tuy nhiên, từ kết luận đến việc đưa ra các biện pháp trừng phạt là cả một quá trình. Khách quan mà nói, tỷ giá hoàn toàn không phải là yếu tố gây ra thâm hụt thương mại hàng hóa của Hoa Kỳ với Việt Nam. Yếu tố cơ cấu mới là nguyên nhân chính.

Việt Nam là nền kinh tế nhập khẩu linh kiện, nguyên phụ liệu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN rồi gia công, chế tạo với giá trị gia tăng thấp để xuất sản phẩm cuối cùng sang thị trường Mỹ và EU. Vì thế, Việt Nam thặng dư thương mại hàng hóa với Mỹ, với EU, nhưng thâm hụt ở mức tương đương với Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN.

Tôi nghĩ điều thuận lợi đối với Việt Nam là chính quyền ông Joe Biden sẽ ít tập trung vào vấn đề thâm hụt thương mại song phương hơn. Ngay cả khi kết luận Việt Nam thao túng tỉ giá thì xác xuất có những hành động trừng phạt nặng nề như đối với Trung Quốc là rất thấp vì ông Biden sẽ không áp dụng cách tiếp cận của ông Trump.

Mặc dù vậy, một số ngành xuất khẩu ở Việt Nam vẫn sẽ chịu tác động nhất định vì Mỹ sẽ tiếp tục có các biện pháp bảo hộ với từng ngành hàng cụ thể.

PV: Nhiều người đang hy vọng dưới chính quyền mới của ông Biden, có thể Mỹ sẽ xem xét tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) bị đình chỉ dưới thời ông Trump. Theo ông, khả năng này có xảy ra hay không?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Tôi cho rằng doanh nghiệp Việt Nam không nên quá hy vọng vào điều này. Chúng ta đều biết TPP có lợi ích sát sườn đối với Việt Nam. Khi chính quyền Obama khởi xướng TPP, các phân tích đều cho thấy Việt Nam có thể là nước hưởng lợi ích lớn nhất từ TPP.

Đáng tiếc là chính quyền ông Trump đã rút lại thoả thuận này.

Khi vận động tranh cử, ông Biden đã tuyên bố có thể quay lại TPP nhưng sẽ đàm phán lại. TPP không phải ưu tiên đối ngoại hàng đầu của chính quyền Biden ít nhất trong đầu nhiệm kì.

Hơn nữa, Đảng Dân chủ của ông Biden phản đối quyết liệt TPP với lí do bảo hộ kinh tế trong nước. Mặt khác, trong trường hợp Mỹ quay lại và đòi đàm phán lại để có thể thuyết phục được các nhóm lợi ích nội địa của Mỹ thì cũng không dễ dàng được các thành viên CPTPP chấp nhận.

Theo tôi, chỉ có một yếu tố thúc đẩy TPP hiện nay là bối cảnh địa chính trị khu vực “Indo-Pacific” và việc Hiệp ước Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) vừa được ký kết.

Lắp ráp xe Vinfast, sản phẩm xe hơi Made in VietNam.

Lắp ráp xe Vinfast, sản phẩm xe hơi Made in VietNam.

PV: Xin ông nói rõ hơn về tác động của RCEP?

Ông Nguyễn Xuân Thành: RCEP vừa được ký kết ngày 15/11 bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand.

Ấn Độ, vì lo ngại không cạnh tranh nổi về kinh tế với Trung Quốc và ASEAN, đã tạm thời đứng ngoài.

Nội dung chính của RCEP là cắt giảm đa số các dòng thuế quan về mức 0% trong vòng từ 1 đến 20 năm và áp dụng quy tắc xuất xứ chung, theo đó chỉ cần đảm bảo 40% hàm lượng sản xuất trong khu vực là được hưởng ưu đãi thuế quan.

Sáng kiến ban đầu là của ASEAN và các nước ASEAN muốn đưa ra thông điệp ASEAN là trung tâm (Hiệp định ASEAN + 6).

Thuần túy về kinh tế thì RCEP mang lại lợi ích lớn nhất cho Hàn Quốc và Nhật Bản vì hai nước này coi như sẽ có được thoả thuận tự do thương mại với Trung Quốc.

Có thể nói RCEP là bước đi rất khôn khéo, đúng thời điểm của Trung Quốc khi nội bộ Mỹ đang lùng bùng vì các tranh cãi hậu bầu cử. RCEP sẽ trở thành sức ép đối với đội ngũ ngoại giao và an ninh sắp tới của ông Biden bởi nếu muốn đối trọng với Trung Quốc thì Mỹ phải quay trở lại cuộc chơi với khu vực.

PV: Nếu triển vọng TPP khó khăn thì tại sao Việt Nam không cân nhắc kí kết FTA song phương với Mỹ?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Tất cả các nước đều muốn có tự do thương mại với Mỹ nhưng tôi nghĩ rằng có được một FTA song phương trong những năm tới là vô cùng khó khăn. Ngoại trừ Nhật Bản, các nền kinh tế trong khu vực có quy mô nhỏ hơn sẽ phải chịu sức ép khổng lồ và những điều kiện vô cùng ngặt nghèo khi đàm phán tay đôi với Mỹ.

Di sản của ông Trump mà ông Biden sẽ không thể thay đổi là người ta đang đánh đồng việc bảo vệ lợi ích của nước Mỹ với chủ nghĩa bảo hộ.

Do đó, nếu Việt Nam đứng ra đàm phán tự do thương mại song phương với Mỹ thì sẽ càng bị các nhóm lợi ích nội địa của Mỹ soi mói và gây khó. Tôi không cho rằng đây là một bước đi khôn ngoan trong tình hình này.

PV: Như ông vừa nói, cạnh tranh Mỹ - Trung sẽ không chấm dứt dưới thời ông Biden. Cuộc cạnh tranh này sẽ ảnh hưởng ra sao đến Việt Nam?

Ông Nguyễn Xuân Thành: Có thể khẳng định chắc chắn rằng chiến tranh thương mại và chiến tranh công nghệ Mỹ - Trung sẽ không chấm dứt. Bởi đây là xu hướng chính sách nhận được sự đồng thuận lưỡng đảng và khó có thể đảo chiều.

Ông Trump đã thành công trong nhiệm kỳ vừa qua khi thoả mãn nỗi bức xúc của chính giới Mỹ đối với Trung Quốc.

Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung dự kiến vẫn còn căng thẳng trong thời gian tới.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung dự kiến vẫn còn căng thẳng trong thời gian tới.

Trong suốt nhiều thập kỉ, giới quan chức Dân chủ và Cộng hoà đều cổ xuý hợp tác với Trung Quốc với mong muốn nước này sẽ tuân thủ luật chơi của quốc tế. Nhưng thực tế là thế giới đã để cho Trung Quốc chơi theo cách chơi của Trung Quốc.

Trong suốt nhiệm kỳ của mình, ông Trump đã liên tục gây sức ép lên Trung Quốc và xu thế này sẽ tiếp tục với chính quyền mới.

Điều này sẽ tác động như thế nào đến Việt Nam? Rõ ràng Việt Nam có cơ hội trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp chế biến – chế tạo hướng vào xuất khẩu bởi chúng ta có lợi thế về năng lực cạnh tranh quốc gia như môi trường vĩ mô ổn định, lực lượng lao động dồi dào, thị trường nội địa tương đối lớn và năng lực điều hành kinh tế của Chính phủ đã được minh chứng trong thời gian vừa qua.

Tuy nhiên, Việt Nam có biến được cơ hội này thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó điều quan trọng nhất là các nhà hoạch định chính sách phải giải được nút thắt về cơ sở hạ tầng; đào tạo nghề và giáo dục đại học; hệ thống doanh nghiệp phụ trợ và cung ứng nội địa.

Ngoài ra, những điểm nghẽn về thể chế cần được khơi thông, trong đó quan trọng nhất là sự bình đẳng trong môi trường kinh doanh và đầu tư.

PV: Xin cảm ơn ông.