Cục Hàng không Việt Nam (CAAV) vừa công bố tài liệu phục vụ Hội nghị Sơ kết công tác đảm bảo chất lượng dịch vụ 6 tháng đầu năm 2019.
Theo đó, trong 6 tháng đầu năm 2019, thị trường hành khách hàng không tiếp tục tăng trưởng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so cùng kỳ 2018 với tốc độ tăng trưởng đạt 9,4% và sản lượng đạt 38,5 triệu khách.
Sản lượng hành khách thông qua các cảng hàng không, sân bay của Việt Nam đạt 56,8 triệu lượt hành khách tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2018. Vận chuyển của các hãng hàng không Việt Nam đạt xấp xỉ 27 triệu hành khách tăng 7,7%.
Số liệu của CAAV cho biết, hiện có 72 hãng hàng không quốc tế và 4 hãng không Việt Nam khai thác hơn 200 đường bay quốc tế thường lệ và thuê chuyến từ 25 quốc gia và vùng lãnh thổ đến 8 điểm ở Việt Nam (Hà Nội, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Cam Ranh, Phú Quốc, Cần Thơ, Cát Bi, Đà Lạt).
Tổng thị trường 6 tháng đạt 20,2 triệu khách, tăng 12,5% so cùng kỳ 2018. Trong đó, các hãng hàng không Việt Nam (HKVN) khai thác 155 đường bay thường lệ và thuê chuyến thường lệ đến 89 điểm của 20 quốc gia và vùng lãnh thổ với thị phần đạt 41%.
Bên cạnh đó, các hãng HKVN khai thác 48 đường bay nội địa kết nối 22 Cảng hàng không. Cụ thể, Vietnam Airlines khai thác 33 đường bay, Vietjet Air khai thác 35 đường bay, Jetstar Pacific khai thác 23 đường bay, Công ty bay dịch vụ hàng không (VASCO) khai thác 9 đường bay và Bamboo Airways khai thác 24 đường bay.
Tổng khách vận chuyển trong nửa đầu năm 2019 đạt 18,3 triệu khách, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2018, với thị phần như sau: Vietnam Airlines chiếm 35,9%, VASCO là 2%, Vietjet chiếm 44%, Jetstar Pacific chiếm 13,9% và Bamboo Airways chiếm 4,2%.
Tính đến ngày 31/6/2019, các hãng hàng không Việt Nam khai thác đội tàu bay gồm 197 chiếc, tăng 30 chiếc so với cùng thời điểm năm 2018 với độ tuổi bình quân là 5,2 tuổi, tỷ lệ sở hữu đạt 27,4% (54 tàu bay sở hữu).
Về chất lượng dịch vụ 6 tháng đầu năm 2019, số liệu cho thấy các hãng HKVN thực hiện hơn 153 nghìn chuyến bay, tăng 2,4% so với cùng kỳ 2018. Trong đó, số chuyến bay cất cánh đúng giờ là 130 nghìn chuyến, chiếm tỷ lệ 84,8%, tỷ lệ chuyến bay đúng giờ giảm 1,3 điểm so với cùng kỳ năm 2018. Số chuyến bay hủy là 274 chuyến, chiếm tỷ lệ 0,2%, tăng 0,1 điểm so với cùng kỳ năm 2018.
Theo số liệu thống kê, có 3 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này: do tàu bay về muộn (13,8 nghìn chuyến chậm, chiếm tỷ lệ 9,0%, giảm 0,2 điểm so với cùng kỳ năm 2017 và chiếm tỷ trọng 59,4% tổng số chuyến bay chậm); do hãng hàng không (5,5 nghìn chuyến bay cất cánh chậm, chiếm tỷ lệ 3,6%, tăng 1,1 điểm so với cùng kỳ năm 2018, chiếm tỷ trọng 23,8% tổng số chuyến bay chậm) và do trang thiết bị tại cảng hàng không với 2,7 nghìn chuyến chậm, chiếm tỷ lệ 1,8% và chiếm tỷ trọng 11,8%./.