Tại sao Fed chưa sẵn sàng tuyên bố chiến thắng lạm phát?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

VietTimes – Giới chức Fed quan ngại về việc liệu có thể giảm đà tăng lương và lạm phát mà không gây suy thoái hay không.

im-822097.jpg
Fed được kỳ vọng sẽ nâng lãi suất trong cuộc họp tháng 7, điều quan trọng hơn là động thái sau đó (Ảnh: Bloomberg)

Bất trắc về diễn biến của lạm phát vào thời điểm cuối mùa Hè này khiến cho các thị trường khó dự đoán nước đi tiếp theo của Fed, sau khi gần như chắc chắn sẽ có một đợt nâng lãi suất trong cuộc họp ngày 26/7.

Một số nhà hoạch định chính sách của Fed và chuyên gia kinh tế quan ngại rằng lạm phát giảm chỉ là nhất thời. Họ cho rằng sự giảm tốc của lạm phát là do những cú sốc từ đại dịch – từng đẩy giá thuê nhà, giá phương tiện đi lại và ô tô lên cao – đã chấm dứt. Và họ dự báo rằng rằng sức ép giá có thể dai dẳng, cần Fed phải nâng lãi suất cao hơn và duy trì ở mức cao đó trong khoảng thời gian dài hơn.

Tuy nhiên, một số chuyên gia kinh tế khác cho rằng quan điểm đó đã bỏ qua những dấu hiệu cho thấy đà tăng trưởng kinh tế đang chậm lại, từ đó giảm bớt áp lực giá. Họ cũng tranh luận rằng lạm phát sẽ chậm lại đủ để đẩy lãi suất thực – hay lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát – lên cao hơn trong những tháng tới. Điều này sẽ tạo ra thêm sự hạn chế của chính sách tiền tệ kể cả khi đợt nâng lãi suất được dự kiến trong tuần này là đợt cuối cùng trong chu kỳ siết chặt hiện tại.

Tháng trước, Fed đã giữ nguyên lãi suất trong khoảng 5%-5,25%, lần đầu tiên tạm ngừng sau 10 lần nâng liên tiếp kể từ tháng 3/2022.

Các đợt nâng lãi suất làm giảm tốc nền kinh tế thông qua các thị trường tài chính, bằng cách giảm giá tài sản và tăng chi phí vay mượn.

Trong tháng 6, lạm phát đã tăng với tốc độ chậm nhất trong vòng 2 năm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức đỉnh 9,1% được ghi nhận trong tháng 6/2022. Lạm phát cơ bản, đã trừ giá thực phẩm và năng lượng cũng có mức tăng ít nhất trong hơn 2 năm.

“Mặc dù mọi thứ trông có vẻ đang đi đúng hướng, nhưng chúng ta mới chỉ bắt đầu một tiến trình dài”, Karen Dynan, nhà kinh tế học đến từ ĐH Harvard, nhận định.

Bắt kịp tốc độ tăng trưởng lương

Nhóm chuyên gia kinh tế đầu tiên lo ngại rằng sự suy giảm là chưa đủ và còn quá nhiều nhu cầu trong nền kinh tế để có thể tin rằng lạm phát sẽ trở về mục tiêu 2% của Fed trong những năm tới. Họ không đồng tình với sự lạc quan gần đây của các nhà đầu tư rằng lạm phát có thể tiếp tục giảm trong khi nền kinh tế tổng thể không mất đi sự phục hồi mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhóm này lại đồng tình rằng dữ liệu sắp tới có thể củng cố hy vọng rằng Fed có thể đạt được một “cú hạ cánh mềm”, tức kiềm chế được sức ép giá mà không đẩy nền kinh tế vào chỗ suy thoái.

Nhiều nhà kinh tế học trong nhóm này lo rằng tăng trưởng lương quá mạnh mẽ. Nếu không có một cuộc suy thoái, họ tin rằng thị trường lao động khoẻ mạnh sẽ làm tăng lạm phát cơ bản trong năm tới.

Vì thị trường lao động quá nóng, dấu hiệu đầu tiên của áp lực lạm phát cơ bản sẽ thể hiện ở tiền lương. Điều này khiến nhiều người coi tăng trưởng lương là thước đo sức ép lạm phát cơ bản.

Giới chức Fed có thể sẽ coi mức tăng lương hàng năm 3,5% là phù hợp với lạm phát trong khoảng 2%-2,5%, giả sử như sản lượng tăng khoảng 1%-1,5% một năm.

Lương đã tăng 5% trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3, so với cùng kỳ năm ngoái, theo chỉ số chi phí nhân công của Bộ Lao động Mỹ. Fed theo dõi sát sao chỉ số này bởi nó là thước đo tăng trưởng lương toàn diện nhất. Dữ liệu trong quý 2 sẽ được công bố vào ngày 28/7.

im-822099.jpg
Thị trường lao động Mỹ đã có tín hiệu hạ nhiệt (Ảnh: WSJ)

Phân tích “top-down” và “bottom-up”

Một câu hỏi lớn đang được đặt ra, liệu nhân công trong thị trường lao động khỏe mạnh có chấp nhận mức tăng lương tối thiểu (đã điều chỉnh theo lạm phát) sau hai năm chứng kiến lương không tăng kịp đà lạm phát hay không.

“Hầu hết mọi người đều được nói rằng họ được tăng lương 3,5% trong năm tới, và họ đều có suy nghĩ rằng “Liệu tôi có thể có mức lương cao hơn nếu tìm việc chỗ khác hay không?””, Eric Rosengren, cựu Chủ tịch Fed Boston, nói.

Và có một mối quan ngại liên quan: phân tích lạc quan của nhiều nhà đầu tư về lạm phát – một quan điểm dựa trên phương pháp bottom-up (từ dưới lên) trong đó nhấn mạnh vào đà giảm giá xe ô tô đã qua sử dụng và đà giảm mạnh giá thuê nhà – đã sinh ra những dự báo không chính xác trong những năm gần đây.

Cách đây 2 năm, nhiều nhà kinh tế học tin rằng hiện tượng tăng giá đột ngột sẽ nhanh chóng đảo chiều, suy nghĩ này khiến họ bỏ qua nhu cầu cơ bản mạnh mẽ, theo Dynan.

“Kinh nghiệm trong năm 2021 là lời nhắc nhở về rủi ro của việc tập trung vào những câu chuyện đặc biệt thay vì nhìn vào những yếu tố cơ bản sâu xa hơn”, bà nói. “Bạn vẫn phải quay lại nhìn bức tranh tổng thể và nhận ra rằng hiện có rất nhiều động lực cơ bản đang diễn ra”.

Phân tích top-down (từ trên xuống) truyền thống về nền kinh tế có thể chỉ ra rằng lạm phát đang giảm ở một số hạng mục giá, điều này sẽ làm giảm áp lực đối với thu nhập khả dụng, tăng nhu cầu và tạo thêm sức ép lạm phát, theo Seth Carpenter, kinh tế gia trưởng đến từ Morgan Stanley.

Tín hiệu thị trường lao động hạ nhiệt

Nhóm các chuyên gia kinh tế thứ hai tin rằng có bằng chứng cho thấy thị trường lao động đang hạ nhiệt, từ đó làm giảm sức ép lạm phát.

Khoảng thời gian mà những người thất nghiệp đi tìm công việc mới đang tăng lên. Số giờ làm việc của nhân viên trong lĩnh vực tư nhân đã tăng chậm lại cùng với số lượng những công việc chưa có người nhận. “Điều này cho thấy thị trường lao động đang thực sự hạ nhiệt”, Jonathan Pingle, kinh tế trưởng đến từ UBS, nhận định.

Hoạt động tuyển mộ lao động khu vực tư nhân trung bình mỗi tháng giảm xuống còn 215.000 trong nửa đầu năm nay, từ mức 317.000 trong nửa sau năm 2022 và 436.000 trong nửa đầu năm 2022. “Đã có sự mất cân bằng lớn trên thị trường lao động, và cần thời gian dài hơn để giải quyết vấn đề đó. Và điều đó đang được giải quyết”, Brian Sack, nhà kinh tế học và là cựu nhân viên cấp cao của Fed New York, nói.

Nếu thị trường lao động tiếp tục thêm 200.000 việc làm mỗi tháng, “đó sẽ là dấu hiệu để Fed tiếp tục duy trì lãi suất cao trong thời gian dài hơn”, theo Pingle. Nhưng nếu tăng trưởng việc làm tiếp tục giảm cùng thời điểm với lạm phát thấp đẩy lãi suất thực lên cao, “họ sẽ phải cân nhắc cực kỳ thận trọng về mức độ siết chặt chính sách mà họ muốn thực hiện”.

Trong tháng 6, giới chức Fed dự báo rằng họ sẽ cần thêm 2 đợt nâng lãi suất nữa, trong khi vào tháng 3 họ dự báo rằng không cần thêm đợt nâng nào. Họ cũng dự báo rằng lạm phát sẽ giảm không đáng kể trong năm nay.

“Quan điểm cho rằng sẽ cần thêm 2 đợt nâng lãi suất một phần là do Fed lo rằng lạm phát không giảm đáng kể. Nhưng giờ điều đó đang thay đổi”, Sack cho hay. “Đợt nâng lãi suất trong tuần này hợp lý hơn bởi đà tăng trưởng và tuyển mộ lao động mạnh mẽ, hơn là bởi dữ liệu về lạm phát sắp tới”.

Giới chức Fed có thể thảo luận về việc, tiếp tục nâng lãi suất sau cuộc họp tháng 7 có cần thiết hay không nếu như lạm phát và hoạt động của nền kinh tế tiếp tục giảm tốc. “Thông tin đáng mừng về lạm phát đang tạo thêm không gian để Fed kiên nhẫn hơn và có thêm thời gian theo dõi”, Dynan nói./.

Theo Wall Street Journal