Ông Lê Đăng Doanh: Không nên chuyển nhượng ồ ạt cảng hàng không

Để có vốn đầu tư xây dựng hạ tầng hàng không, trong thời gian tới, Bộ GTVT đang có chủ trương nhượng quyền khai thác toàn bộ cũng như một phần kết cấu hạ tầng một số cảng hàng không.
Nhà ga T1 sân bay Nội Bài có thể sẽ được chuyển nhượng
Nhà ga T1 sân bay Nội Bài có thể sẽ được chuyển nhượng

Cụ thể, trong năm 2015, ngành hàng không tập trung vào việc thí điểm bán 100% vốn Nhà nước tại sân bay Phú Quốc; thí điểm bán dứt điểm quyền khai thác sảnh E sân bay quốc tế Nội Bài cho hãng hàng không Vietjet Air, bán một phần sân bay Cam Ranh, sân bay Đà Nẵng…

Chủ trương chuyển nhượng quyền khai thác cảng hàng không hiện chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Để đánh giá tác động của chủ trương này đối với nền kinh tế, phóng viên VOV.VN có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế, TS. Lê Đăng Doanh.

Cần có một khung pháp lý cụ thể

PV: Xin ông cho biết quan điểm về chủ trương của Bộ GTVT trong việc chuyển nhượng quyền khai thác một số cảng hàng không thời gian tới?

TS. Lê Đăng Doanh: Trên thế giới, việc cổ phần hóa hay tư nhân hóa các cảng hàng không đều diễn ra từ khá lâu. Ví dụ như cảng hàng không Heathrow ở London của Anh đã được tư nhân hóa; hay như cảng hàng không ở Budapest của Hungaria cũng thuộc về sở hữu tư nhân… việc cổ phần hóa tại các cảng hàng không này cho đến này đều mang lại những kết quả tích cực.

Chuyên gia kinh tế, TS. Lê Đăng Doanh.
Chuyên gia kinh tế, TS. Lê Đăng Doanh.

Lợi ích của việc tư nhân hóa các cảng hàng không là nhà nước sẽ thu được ngay một số vốn nhất định. Với số vốn đó, nhà nước có thể tái đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, các cảng hàng không khác. Tuy nhiên, điều quan trọng trong việc tư nhân hóa cảng hàng không là phải có khung pháp lý về việc tư nhân quản lý cảng hàng không một cách cụ thể và rõ ràng.

Điều tiếp theo nữa cũng rất quan trọng, đó là phải tổ chức việc tư nhân hóa các cảng hàng không đó một cách công khai minh bạch, có sự cạnh tranh bình đẳng, tránh việc định giá không được khách quan và chính xác gây thiệt thòi cho nhà nước. 

Tránh việc chỉ định một đối tác nào đó thành người duy nhất được quyền mua cổ phần cảng hàng không. Nếu không xem xét kĩ có thể vô hình chung đã giao cảng hàng không - một sản phẩm quan trọng trong kết cấu hạ tầng vào tay tư nhân mà không có sự giám sát.

Do vậy cần phải có Luật về cổ phần hóa, tư nhân hóa của Quốc hội để có những quy định một cách chặt chẽ, từ đó có vai trò giám sát độc lập của Quốc hội và có sự định giá một cách minh bạch.

PV: Như ông vừa nói, khi chưa có khung pháp lý về việc cổ phần hóa cảng hành không sẽ dẫn tới nhiều lo ngại như tư nhân nước ngoài hoặc các đối tác không vì mục đích kinh tế?

TS. Lê Đăng Doanh: Điều này rõ ràng là có bởi với một cảng hàng không, cảng biển không chỉ là đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mà còn có những vai trò chiến lược rất quan trọng. Do vậy cần phải có những khung luật pháp rất chặt chẽ và có sự giám sát của sự quản lý đó với những điều kiện cụ thể. 

Thứ hai nữa khi tiến hành cổ phần hóa cảng hàng không cần phải cân nhắc giao cảng hàng không đó vào tay ai? Việc này cần phải tiến hành công khai minh bạch, bình đẳng, có cạnh tranh… có sự giám sát độc lập của cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân, cụ thể là cơ quan Quốc hội.

Không nên chuyển nhượng ồ ạt khi chưa thí điểm

PV: Trong trường hợp chủ trương chuyển nhượng cảng hàng không được thực hiện, chúng ta có nên chuyển nhượng hoàn toàn hay không? Và nếu không thì tỷ lệ chuyển nhượng là bao nhiêu sẽ phù hợp thưa ông?

TS. Lê Đăng Doanh: Chủ sở hữu cảng hàng không có thể cổ phẩn hóa với một tỷ lệ khác nhau. Nếu như chúng ta cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn giữ vai trò cổ đông đa số thì các nhà đầu tư chiến lược sẽ phải thận trọng bởi họ bỏ vốn ra nhưng không có quyền quyết định. Đây là điều cần phải tính toán, xem xét và cân đối xem Nhà nước nên giữ tỷ lệ cổ phần là bao nhiêu là hợp lý.

Đối với tỷ lệ chuyển nhượng cũng cần phải xem xét tùy thuộc vào từng dự án, phụ thyộc vào quy mô và vị trí cũng như tầm quan trọng của dự án đó. Nhưng quan trọng nhất vẫn phải có Luật Cổ phần hóa để quy định khung pháp lý rõ ràng trong đó có vai trò giám sát của Quốc hội.

Hiện nay do chưa có Luật về cổ phần hóa cho nên các quyết định về cổ phần hóa là quyết định của Chính phủ và Quốc hội chỉ có vai trò giám sát tối cao sau khi Chính phủ đã thực hiện, trong quá trình thực hiện Quốc hội chưa phát huy vai trò giám sát.

Cần lưu ý trong Luật Cổ phần hóa phải quy định rõ ràng quy trình đánh giá và quy trình kêu gọi cổ phần hóa một cách công khai minh bạch trên cơ sở cạnh tranh để loại trừ những yếu tố như lợi ích nhóm, giao các dự án có một tỷ lệ lợi nhuận rất cao, có vị trí chiến lược quan trọng cho một số đối tác tư nhân nhất định có năng lực không đạt yêu cầu cũng như quản lý về mặt chiến lược thiếu tin cậy…

Điều quan trọng nữa cần chuyển nhượng thí điểm ở một số dự án nhất định để rút kinh nghiệm, sau đó sẽ dần mở rộng ra, không nên làm ồ ạt ngay trong bối cảnh chưa có khung pháp luật, chưa có kinh nghiệm cũng như quá trình giám sát độc lập của Quốc hội. 

PV: Vậy theo ông ở thời điểm hiện nay thì việc chuyển nhượng cảng hàng không có thực sự cấp thiết hay không? 

TS. Lê Đăng Doanh: Theo tôi hiểu thì Chính phủ rất muốn thu hút được nguồn vốn để tái đầu tư tiếp tục xây dựng các công trình khác, đây là điều có thể thông cảm được.

Tuy vậy để đảm bảo việc làm này diễn ra có hiệu quả và công khai minh bạch vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân, trước tiên vẫn phải xây dựng luật sau đó có những bước đi thí điểm và có những bước đi thích hợp với sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội.

Trước mắt, khi chưa có Luật thì chưa nên tiến hành, khi nào xây dựng xong luật mới có thể thí điểm áp dụng với một dự án cảng hàng không nhất định, và tất nhiên dự án cảng hàng không được chuyển nhượng đó sẽ không nhất thiết phải là một cảng hàng không quan trọng.

PV: Xin cảm ơn ông!./. 

Theo Nguyễn Quỳnh

VOV.V