(tiếp theo kỳ trước)
Báo Mỹ “mách kế” phong tỏa trận chặn Trung Quốc phiêu lưu
Về dài hạn, các lực lượng mặt đất cũng có thể trợ giúp các hoạt động tác chiến chống lại lực lượng tàu ngầm ngày càng lớn mạnh của PLA. Một chiếc tàu ngầm chủ yếu dựa vào khả năng tàng hình của nó để phòng thủ; một khi bị phát hiện, nó phải tránh liên lạc hoặc có nguy cơ cao bị tiêu diệt. Bằng cách bố trí các thiết bị cảm biến tần số thấp và cảm biến âm thanh dưới nước xung quanh chuỗi đảo thứ nhất, các lực lượng của Mỹ và đồng minh có thể gia tăng khả năng phát hiện tàu ngầm của PLA. Các đơn vị pháo binh ven biển khi đó có thể sử dụng ngư lôi phóng từ tàu ngầm để khiến các tàu ngầm đang tiến đến phải từ bỏ nhiệm vụ và rút lui.
Nếu Trung Quốc tấn công một đồng minh hoặc đối tác của Mỹ, ngay cả một số lượng nhỏ bộ binh của Mỹ cũng có thể giúp đỡ các lực lượng địa phương chống trả quyết liệt. Các xung đột hiện đại ở khu vực Đông Nam Á và Trung Đông đã thể hiện những gì mà một lực lượng mặt đất không chính quy khiêm tốn có thể làm được với sự giúp đỡ của các vũ khí hiện đại và các cố vấn tài giỏi. Vào năm 2001, một nhóm nhỏ lực lượng đặc biệt của Mỹ, được hỗ trợ bởi máy bay, đã giúp Liên minh phương Bắc của Afghanistan đánh bại Taliban. Và vào năm 2006, các chiến binh Hezbollah ở Liban, với sự trợ giúp của các cố vấn Iran, đã chiến đấu chặn đứng quân đội Israel trong suốt 1 tháng.
Một nỗ lực tương tự của các lực lượng mặt đất của Mỹ ở Thái Bình Dương có thể khiến việc đoạt lấy và chiếm đóng lãnh thổ trở thành một vấn đề cực kỳ tốn kém đối với Trung Quốc, đặc biệt là nếu các lực lượng địa phương cũng được huấn luyện và trang bị tiên tiến. Chẳng hạn, khả năng tiếp cận súng cối, tên lửa tầm ngắn dẫn đường chính xác, và các tên lửa phòng không vác vai, sẽ tối đa hóa việc sát thương của các đơn vị kháng chiến du kích nhỏ.
Bằng cách gánh vác nhiều hơn trách nhiệm ngăn chặn PLA kiểm soát vùng trời và vùng biển mà họ cần để gia tăng các hoạt động tấn công, các lực lượng mặt đất có thể để cho các lực lượng không quân và hải quân của đồng minh thực hiện các nhiệm vụ mà họ có thể thực hiện, chẳng hạn như do thám tầm xa và không kích.
Nếu răn đe thất bại, các phương tiện không quân và hải quân này sẽ chứng tỏ tầm quan trọng đối với việc bảo vệ chuỗi đảo thứ nhất và bù lại các lợi thế của PLA. Chẳng hạn, PLA có thể tập trung các lực lượng ở bất kỳ địa điểm nào dọc chuỗi đảo thứ nhất nhanh chóng hơn nhiều so với Mỹ và các đồng minh của nước này, những nước có quân đội của họ được phân bố rải rác hơn.
Và PLA không cần phải điều hòa các lợi ích quốc gia mâu thuẫn. (Sau khi Trung Quốc tấn công một hòn đảo, các quốc gia dọc chuỗi đảo này có thể sẽ muốn giữ các lực lượng của họ tại chỗ để bảo vệ quê hương của mình). Bằng cách giảm bớt đòi hỏi phải có các lực lượng không quân và hải quân của Mỹ thực hiện các nhiệm vụ chẳng hạn như chống xâm nhập vùng trời và vùng biển, các lực lượng mặt đất sẽ cho phép các lực lượng không quân và hải quân giữ vững lực lượng, sẵn sàng di chuyển nhanh chóng để bảo vệ một mắt xích bị đe dọa trong chuỗi.
Để thành công, một chính sách răn đe cũng cần phải có một sự đe dọa trả đũa đáng tin cậy sau sự việc, và ở đây, các lực lượng mặt đất cũng có thể giúp đỡ. Hiện nay, các vũ khí của Mỹ mà có thể phát động một cuộc tấn công trả đũa chính xác được đặt tại các căn cứ không quân và tàu sân bay tiền tuyến ngày càng dễ bị tổn thương. Lầu Năm Góc dự định sẽ giải quyết vấn đề này một phần bằng cách chế tạo các tàu ngầm và máy bay ném bom tàng hình tầm xa mới, nhưng chi phí cho các khí tài hạng nặng như vậy là rất cao, đặc biệt là do tải trọng tương đối khiêm tốn của chúng.
Nếu so sánh, các lực lượng mặt đất, có thể mất một mức chi phí rẻ hơn để cung cấp thêm hỏa lực. Không giống như các lực lượng không quân và hải quân, các lực lượng mặt đất có thể không cần quay trở lại các căn cứ xa xôi để tái vũ trang. Họ có thể dự trữ nhiều đạn dược hơn rất nhiều so với ngay cả chiếc máy bay ném bom hay tàu chiến lớn nhất, và họ có thể cất trữ chúng trong các boongke kiên cố có thể chống chịu được các đợt tấn công tốt hơn.
Hơn nữa, trong trường hợp có xung đột, PLA sẽ được hưởng lợi nhờ một lợi thế đặc biệt không cân xứng: số lượng lớn tên lửa đạn đạo tầm trung trên đất liền của nước này. Mỹ với tư cách là một bên ký kết Hiệp ước các lực lượng hạt nhân tầm trung (IRNF), không thể triển khai các hệ thống này. Tuy nhiên, bằng cách trang bị cho các lực lượng mặt đất những tên lửa tương đối rẻ tiền tuân thủ các hạn chế về tầm bắn của hiệp ước này, và bằng cách bố trí các tên lửa này dọc chuỗi đảo thứ nhất để giảm bớt chi phí liên quan đến việc phóng tên lửa tầm xa, Washington và các đồng minh của mình có thể tiến xa trong việc “sửa chữa” sự mất cân bằng này với một chi phí tương đối thấp. Và nếu bộ binh không thể hành động đủ nhanh để đối phó với một sự xâm phạm các phòng tuyến của chuỗi đảo này, các phòng tuyến gần đó có thể nhanh chóng đáp trả bằng cách tập trung hỏa lực tên lửa vào khu vực bị đe dọa.
Có lẽ điểm yếu nhất của chuỗi đảo thứ nhất là mạng lưới tác chiến của Mỹ – các hệ thống quan trọng có thể xử lý tất cả vấn đề từ chỉ đạo và theo dõi quân đội và tiếp tế cho đến điều khiển vũ khí. Mạng lưới này hiện nay chủ yếu dựa vào các vệ tinh và phương tiện bay không người lái (UAV) không tàng hình, cả hai đều có thể bị PLA nhắm làm mục tiêu.
Cách tốt nhất để giảm bớt rủi ro sẽ là thiết lập một mạng lưới thông tin liên lạc bằng cáp quang được chôn dưới mặt đất và đáy biển dọc chuỗi đảo này, cho phép các lực lượng khác nhau tiếp nhận và truyền tải dữ liệu một cách an toàn từ các trung tâm chỉ huy kiên cố trên đất liền. Các lực lượng phòng không và phong tỏa biển được đặt trên đảo, cũng như là các bãi mìn chống tàu, có thể bảo vệ các đường dây cáp chạy giữa các hòn đảo.
Giống với bất kỳ khái niệm tác chiến nào, phòng thủ quần đảo cũng gặp phải những trở ngại. Hai trở ngại nổi bật nhất là tài chính và địa chính trị: phí tổn về sau và sự sẵn sàng hợp tác của các nước nằm dọc chuỗi đảo thứ nhất. Nhưng bất chấp cái giá được đưa ra để có một tư thế mới, cộng đồng phòng thủ ở Mỹ đang bắt đầu nhận thấy rằng những sự cắt giảm được dự kiến hiện tại trong ngân sách quốc phòng của Lầu Năm Góc không thích hợp với môi trường an ninh ngày càng nguy hiểm hiện nay. Ủy ban Quốc phòng, một nhóm chuyên gia quốc phòng của hai đảng của Mỹ đã đề nghị chính quyền và quốc hội Mỹ khôi phục chi tiêu quốc phòng.
Lầu Năm Góc cũng có thể đưa ra lập luận rằng việc đầu tư vào phòng thủ quần đảo có thể đem lại những lợi ích vượt ra ngoài Tây Thái Bình Dương. Chẳng hạn, cái gọi là khái niệm Tác chiến trên không-trên bộ, vốn được phát triển trong những năm 1970 và giúp ngăn chặn một cuộc tấn công của khối Vacsava vào NATO, đã thành công không chỉ ở Trung Âu. Mỹ và các đồng minh của nước này cũng đã dựa vào khái niệm này, dưới hình thức sửa đổi, trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1990-1991. Tương tự, Lầu Năm Góc có thể sử dụng nhiều năng lực liên quan đến phòng thủ quần đảo để bảo vệ các khu vực quan trọng khác, gồm cả các đồng minh và đối tác gần vùng Vịnh Persian và Biển Baltic.
Lầu Năm Góc vẫn dành ra một số lượng đáng kể lực lượng mặt đất để bảo vệ Hàn Quốc trước một cuộc tấn công của Triều Tiên. Tuy nhiên, một cuộc xâm lược quy mô lớn là điều không thể xảy ra; mối đe dọa lớn hơn là Bình Nhưỡng có thể phát động một cuộc tấn công với các tên lửa được trang bị đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn hóa học. Trong bất kỳ trường hợp nào, Hàn Quốc có dân số lớn gấp đôi dân số của Triều Tiên và thu nhập bình quân đầu người lớn gấp hơn 15 lần. Seoul có thể và nên gánh vác một phần gánh nặng phòng thủ lớn hơn trước một cuộc tấn công trên bộ truyền thống.
Ngay cả với các nguồn lực thích hợp, việc phối hợp với một nhóm đồng minh và đối tác khu vực chắc chắn sẽ là một thách thức. Các lực lượng mặt đất của Mỹ sẽ phải đóng các vai trò khác nhau phụ thuộc vào nước này. Nhật Bản, với các năng lực đáng gờm của mình, có thể hỗ trợ cho tuyến phòng thủ trên bộ của nước này mà không cần nhiều đến sự trợ giúp của Mỹ. Ngược lại, các lực lượng mặt đất của Mỹ có thể sẽ cần phải đảm nhận một vai trò to lớn hơn ở Philippines. Ở cả hai nước, một sự hiện diện lớn hơn của Mỹ ở trên bộ sẽ đem lại một mức độ đảm bảo mà các lực lượng không quân và hải quân, vốn có thể nhanh chóng rút lui, không thể đem lại. Trong khi đó, Đài Loan, do không có các mối quan hệ ngoại giao với Mỹ, sẽ phải hành động với hầu như không hoặc không có sự trợ giúp đỡ nào.
Một số nước như Nhật Bản và Việt Nam, đã cho thấy rằng họ nghiêm túc về việc triển khai dạng phòng tuyến mạnh mẽ cần thiết cho phòng thủ biển đảo. Các quốc gia khác nằm ngoài chuỗi đảo thứ nhất, trong đó có Úc và Singapore, dường như có ý sẵn sàng cung cấp sự trợ giúp về căn cứ và hậu cần. Nhưng chính bởi NATO cũng đã phải mất hơn một thập kỷ để thiết lập một sự răn đe thông thường đáng gờm đối với khối Vacsava, Mỹ và các đồng minh của mình không thể thiết lập phòng thủ quần đảo trong một sớm một chiều.
Hiện nay, việc cam kết thực hiện chiến lược này có lợi thế, đó là cho phép Washington và các bạn bè của mình dàn trải phí tổn triển khai các lực lượng như vậy theo thời gian. Trong khi đó, bởi sự cạnh tranh quân sự đang diễn ra của khu vực này, Mỹ và các đồng minh của mình dọc chuỗi đảo thứ nhất phải nỗ lực kiên trì, lâu dài để duy trì sự ổn định và thịnh vượng của khu vực.
Dĩ nhiên, phòng thủ quần đảo sẽ không đem lại nhiều hơn một thứ thuốc chữa bách bệnh chống lại mọi hình thức gây hấn của Trung Quốc so với sự răn đe thông thường của NATO đã giải quyết những vấn đề mà các cuộc chiến giải phóng dân tộc và tăng cường hạt nhân của Moscow đặt ra. Nhưng việc thiết lập một tư thế như vậy sẽ thể hiện bước đi đầu tiên cần thiết trong việc đối trọng với các tham vọng của Trung Quốc.
Theo Foreign Affairs