Là ngôi trường đại học duy nhất có lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử của nền Y học Việt Nam hiện đại, đặc biệt, có vị Hiệu trưởng đầu tiên là nhà khoa học lớn Alexandre Yersin, cùng nhiều nhà khoa học mà tên tuổi vượt ra ngoài biên giới - như GS. Hồ Đắc Di, GS. Đặng Văn Ngữ, GS. Tôn Thất Tùng - Trường Đại học Y Hà Nội đặt ra sứ mạng không ngừng tạo ra các sản phẩm đào tạo, khoa học công nghệ (KH&CN) và dịch vụ y tế tinh hoa, xứng đáng với truyền thống hơn một thế kỷ phụng sự dân tộc.
Trong xu thế hội nhập sâu rộng và toàn cầu hoá, Trường còn xác định rõ tầm nhìn là đại học nghiên cứu ngang tầm các trường đại học y khoa hàng đầu ở châu Á.
Kinh tế tri thức là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển
Trao đổi với VietTimes, GS.TS. NGND. Tạ Thành Văn - Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Y Hà Nội (ĐHYHN)- chia sẻ: Trường Đại học Y Hà Nội đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển đổi sang cơ chế tự chủ đại học, tự chịu trách nhiệm xã hội. Quản trị đại học, kinh tế tri thức sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự phát triển của Trường.
“Vì thế, Trường chủ trương tăng cường đầu tư cho KH&CN, phấn đấu tỷ trọng nguồn thu về KH&CN và dịch vụ y tế chiếm phần lớn trong nguồn ngân sách của Trường. Đặc biệt, thúc đẩy nguồn vốn đầu tư cho KH&CN thông qua các đơn đặt hàng, hợp tác từ doanh nghiệp, nhằm ứng dụng ngay kết quả nghiên cứu vào thực tiễn và giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước dành cho KH&CN” - GS. Tạ Thành Văn nhấn mạnh.
Điều này phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Lễ kỷ niệm 120 năm thành lập Trường: Trường ĐHYHN cần đẩy mạnh hợp tác công - tư và huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng; tăng cường ứng dụng các thành tựu KH&CN tiên tiến, hiện đại.
Là người từng làm việc ở nhiều quốc gia có nền khoa học phát triển, GS. Văn biết rất rõ, kinh phí nghiên cứu KH&CN ở các nước chủ yếu từ các doanh nghiệp đặt hàng. Từ 2018, ông đã chủ trương thành lập các doanh nghiệp KH&CN của Trường để thương mại hoá các sản phẩm nghiên cứu - chất xám của giáo viên, để các công trình không bị “bỏ quên trong ngăn kéo” như vẫn thường thấy.
Đây là bước đột phá quan trọng trong lĩnh vực KH&CN của Trường, nhất là trong bối cảnh Bộ KH&CN cho biết: Việc chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu các trường đại học ứng dụng trong phát triển kinh tế - xã hội chỉ khoảng 10% -con số quá nhỏ so với tiềm năng tài sản trí tuệ, dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư.
Về vấn đề chuyển giao công nghệ, GS.TS. Trần Huy Thịnh - Trưởng Phòng Quản lý KH&CN Trường ĐHYHN - cho biết Trường đã ban hành quy chế quản trị tài sản trí tuệ của Trường, làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại hoá.
Nhiều năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, đặc biệt là đại dịch COVID-19, nhưng công tác nghiên cứu khoa học của Trường ĐHYHN luôn được đặc biệt quan tâm và đã gặt hái được những thành quả đáng tự hào.
Chỉ 5 năm gần đây, Trường đã có gần 1.500 công trình khoa học công bố quốc tế và là một trong số ít các trường đại học và cơ sở nghiên cứu của Việt Nam có chỉ số trích dẫn cao nhất.
Cũng theo GS. Thịnh, so với giai đoạn 2012-2016, 5 năm vừa qua, số lượng các đề tài/dự án cấp nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở đều tăng mạnh.
Đặc biệt, với những cống hiến quan trọng trong nghiên cứu khoa học và giáo dục, ngày 13/2/2020, GS. Tạ Thành Văn đã vinh dự nhận bằng Giáo sư danh dự của Đại học Kanazawa, trở thành bác sĩ người Việt đầu tiên là giáo sư đồng thời tại hai trường đại học của Việt Nam và Nhật Bản.
Nhóm Nghiên cứu mạnh - nòng cốt thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học
Để biến chủ trương tăng nguồn vốn đầu tư cho KH&CN thông qua các đơn đặt hàng thành hiện thực, lãnh đạo Trường ĐHYHN đã phát triển các nhóm Nghiên cứu mạnh là các nhà khoa học có nhiều công bố quốc tế, thu hút được nhiều nguồn tài trợ, đặt hàng. Để hỗ trợ họ, Trường đầu tư cơ sở hạ tầng cho công tác nghiên cứu.
Theo GS. Tạ Thành Văn, các Nhóm nghiên cứu mạnh tiêu biểu trong nhiều lĩnh vực: Lĩnh vực y học dự phòng và y tế công cộng của GS. Lê Thị Hương, HIV và nghiện chất có PGS. Lê Minh Giang. Lĩnh vực Y tế cơ sở có GS. Trần Huy Thịnh với các nghiên cứu tế bào trị liệu; nghiên cứu đột biến gen và bệnh lý di truyền, chẩn đoán trước sinh, tiền làm tổ của GS. Trần Vân Khánh.
Lĩnh vực Dược lý lâm sàng, thử nghiệm lâm sàng thuốc, vaccine sinh phẩm có PGS. Phạm Thị Vân Anh; Mô phỏng bệnh lý của người trên động vật như nghiên cứu về ruồi giấm của TS. Nguyễn Trọng Tuệ.
“Các nghiên cứu đều được tiến hành theo chuẩn mực quốc tế, có sự giám sát của các chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế” - Chủ tịch Hội đồng trường nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Trường còn thành lập Quỹ tài trợ cho các Nhóm nghiên cứu mạnh với quy định: Nhận tiền hỗ trợ là phải có sản phẩm cụ thể được nghiệm thu, mang lại giá trị thương hiệu và lợi ích cho nhà trường.
Để giúp các giảng viên công bố các kết quả nghiên cứu trên các tạp chí uy tín trên thế giới, khẳng định thương hiệu trong KH&CN của Trường, Trường đã thành lập bộ phận hỗ trợ xuất bản quốc tế do GS. Trần Xuân Bách phụ trách.
Nhằm khuyến khích và ghi nhận các tài năng khoa học, 10 năm qua, Trường đã tổ chức Giải thưởng Đặng Văn Ngữ dành cho các cán bộ, sinh viên có công bố xuất sắc nhất.
Thực tế cho thấy, các nhóm Nghiên cứu mạnh hoạt động rất hiệu quả, khi có nhiều dự án thu hút đầu tư từ nước ngoài, các bộ, ngành, địa phương, mà Giải thưởng Đặng Văn Ngữ được trao cũng tập trung ở nhóm này, cho thấy định hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm của Trường hoàn toàn đúng.
Bên cạnh đó, một kết quả khác mà nhóm Nghiên cứu mạnh mang lại là thông qua các đề tài, dự án nghiên cứu, đã đào tạo được nhiều tiến sĩ, cao học. Trường ĐHYHN luôn dẫn đầu trong tổng quy mô đào tạo cũng như tuyển sinh trình độ tiến sĩ. Năm 2023, trường có 170 ứng viên dự tuyển trình độ tiến sĩ - con số nhiều cơ sở đào tạo mơ ước.
Theo PGS.TS. Lê Minh Giang - Trưởng Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại học, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Đào tạo và nghiên cứu về lạm dụng chất và HIV của Trường ĐHYHN – trong thập kỷ qua, nhóm Nghiên cứu mạnh này thông qua các hợp tác quốc tế đã đào tạo được 5 tiến sĩ ở các nước Úc, Mỹ, Pháp, Nhật và quay về công tác tại Trung tâm.
Theo PGS. Lê Minh Giang dấu mốc của nhóm Nghiên cứu mạnh không chỉ là số lượng bài báo quốc tế mà là việc định hướng được nghiên cứu chuyên sâu và đào tạo được các chuyên gia để cạnh trạnh quốc tế.
“Với những giải pháp đang được thực thi, chúng tôi tạo ra văn hoá nghiên cứu theo chuẩn mực quốc tế - điều rất quan trọng trong hội nhập. Sau khi thử nghiệm lâm sàng vaccine và thuốc điều trị COVID-19 của Nhật, Mỹ thành công, nhiều công ty trên thế giới tiếp tục tìm đến hợp tác, với sự đồng thuận của Bộ Y tế. Đây là sự thành công và là niềm tự hào của Trường” - GS. Tạ Thành Văn bày tỏ.
Ứng dụng thành tựu KH&CN phục vụ phát triển đất nước và hội nhập
Những kết quả nghiên cứu của Trường được đánh giá rất cao, vì thế, ngày càng nhiều tổ chức quốc tế, Bộ KH&CN, các địa phương và doanh nghiệp tìm đến đặt hàng. Trong 5 năm gần đây, Trường đã có 82 dự án hợp tác trong nước và quốc tế.
Điều này đã khích lệ các nhà khoa học không ngừng sáng tạo, khi chất xám được sử dụng hữu ích cho xã hội và nhà khoa học được làm giàu từ tài năng, trí tuệ của mình.
Trong giai đoạn dịch COVID-19, Trường vừa tham gia tuyến đầu chống dịch, vừa triển khai nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng các vaccine phòng COVID-19: Dự án vaccine RNA tự khuếch đại ARCT-154 phòng SARS-Cov-2 phối hợp với tập đoàn Arcturus (Mỹ) với đại diện tại Việt Nam là Công ty Biocare thuộc Tập đoàn Vingroup; dự án vaccine COVIVAC do IVAC sản xuất; dự án vaccine S-268019 trong dự phòng COVID-19 được thực hiện dưới sự tài trợ của Tập đoàn Shionogi (Nhật Bản).
Theo PGS. TS. Phạm Thị Vân Anh - Giám đốc Trung tâm Dược lý lâm sàng - các dự án này đều thực hiện trong thời gian dài, 2 đến 4 năm với nhiều lần thăm khám, trên số lượng lớn người tình nguyện (120 người trong nghiên cứu COVIVAC, gần 6.000 người trong nghiên cứu ARCT-154 và hơn 5.000 người trong nghiên cứu vaccine S-268019).
GS. Trần Huy Thịnh thông tin thêm: Kết quả thử nghiệm lâm sàng vaccine ARCT-154 đã được Cơ quan Dược phẩm và Thiết bị y tế Nhật Bản kiểm tra điểm nghiên cứu (8/2023) để tiến hành cấp phép. Hiện, vaccine này đã nộp hồ sơ xin cấp phép ở châu Âu (EMA).
Bên cạnh đó, kết quả thử nghiệm lâm sàng thuốc Xocova điều trị COVID-19 với sự tham gia của Trường cũng đã thành công nên đã được cấp phép khẩn cấp tại Nhật Bản trên đối tượng F0.
Nghiên cứu thử nghiệm vaccine Shionogi cũng đã hoàn tất và chuẩn bị các thủ tục để xin cấp phép.
GS.TS. Trần Huy Thịnh giới thiệu một số dự án hợp tác quốc tế tiêu biểu của trường thời gian qua: “Nâng cao năng lực đánh giá chương trình và tăng cường hệ thống y tế hỗ trợ công tác dự phòng, điều trị và chăm sóc HIV ở Việt Nam”, “Nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu về các bệnh không lây nhiễm ở Việt Nam”, "Các nguyên nhân chính gây bệnh ở mắt và mất thị lực" phối hợp với Viện thị giác Brien Holden, Quỹ Lion Clubs Quốc tế" và "Chương trình đào tạo nâng cao năng lực về nghiên cứu nhân rộng can thiệp dựa vào bằng chứng trong lĩnh vực phòng, chống HIV tại Việt Nam".
Đầu tư đúng, thu hút lớn
Là nhà khoa học có nhiều đề tài, dự án được quốc tế tài trợ với số tiền hàng triệu USD, PGS.TS. Lê Minh Giang cho biết, nhiều kết quả nghiên cứu của ông là cơ sở cho Bộ Y tế ban hành chính sách hoặc hướng dẫn điều trị HIV. Ví dụ như nghiên cứu “Đánh giá kết quả triển khai đề án điểm cấp methadone nhiều ngày cho người bệnh điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện tại ba tỉnh Việt Nam" do Dự án Quỹ toàn cầu Phòng, chống HIV/AIDS, Lao và Sốt rét thuộc Bộ Y tế quản lý đã lựa chọn Trung tâm là đơn vị triển khai sau quá trình đấu thầu công khai, đã cung cấp bằng chứng để Bộ Y tế trình Chính phủ mở rộng Đề án.
Nhóm nghiên cứu của PGS. Lê Minh Giang cũng là nhóm đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về tốc độ lây truyền HIV ở nhóm MSM, cung cấp bằng chứng để Bộ Y tế thuyết phục các nhà tài trợ mở rộng thuốc điều trị dự phòng PrEP cho Việt Nam. Khi nhiều bệnh nhân uống PrEP vẫn nhiễm HIV, PGS.TS. Lê Minh Giang đã hợp tác với Nhật nghiên cứu đánh giá nguyên nhân là do việc tuân thủ điều trị kém hay do gen kháng thuốc, giúp xây dựng Hướng dẫn điều trị dự phòng HIV/AIDS của Bộ Y tế.
Một nghiên cứu khác của Trung tâm là về thuốc Suboxone sử dụng trong điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện lồng ghép trong cơ sở điều trị HIV/AIDS cho thấy hiệu quả không thua kém so với chuyển sang cơ sở Methadone, tác dụng lại kéo dài hơn, giảm việc đi lại của người bệnh, trở thành cơ sở để Bộ Y tế cho triển khai thí điểm ở một số tỉnh miền núi. Điều này cực kỳ có ý nghĩa với các bệnh nhân ở các vùng đi lại khó khăn, hay trong giai đoạn dịch COVID-19, khi không phải hàng ngày đến nhận thuốc như trước.
Với những kết quả nghiên cứu mang tầm quốc tế, các công trình của nhóm Nghiên cứu mạnh của PGS. Giang đã chứng minh được năng lực để cạnh tranh trực tiếp với các nhóm nghiên cứu của các nước, để thu hút được tài trợ.
Mới đây, dự án nghiên cứu giải pháp giảm sử dụng ma túy đá ở bệnh nhân methadone đã được Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ (US NIH) tài trợ kinh phí 5 năm, nhằm tìm ra giải pháp không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà còn với toàn cầu.
Đặc biệt, trong dự án này, NIH - cơ quan tài trợ nghiên cứu sức khỏe hàng đầu trên thế giới, đã chuyển kinh phí trực tiếp cho Trường ĐHYHN - điều rất hiếm hoi trong các dự án do NIH tài trợ, minh chứng cho sự tin tưởng về tính liêm chính trong quản lý tài trợ của Trường ĐHYHN.
Trái ngọt
Từ việc tạo điều kiện tối đa cho các nhà khoa học nghiên cứu, những năm gần đây, nguồn thu từ hoạt động khoa học và chuyển giao công nghệ của Trường ĐHYHN tăng đáng kể, một số dự án được đặt hàng nghiên cứu từ trên 100 tỷ tới gần 200 tỷ đồng, đã khẳng định trình độ, tài năng và uy tín của các nhà khoa học ở đây.
Nhà trường không chỉ là nơi có các thầy thuốc và thầy giáo xuất sắc, mà còn là nơi đào tạo các nhà khoa học hàng đầu trong các lĩnh vực khoa học sức khỏe của Việt Nam.
Những nỗ lực của từng nhà khoa học như những bông hoa kết lên đài hoa chiến thắng đầy tự hào của ngôi trường Y khoa hàng đầu cả nước và được nhân dân tôn vinh, thế giới công nhận. Đảng, Nhà nước cũng đã ghi nhận cống hiến của các nhà khoa học, nhà giáo bằng các danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động, Nhà giáo Nhân dân, Thầy thuốc Nhân dân, Giáo sư vv….
Đặc biệt, nhiều cán bộ của Trường đã trở thành những nhà khoa học tầm cỡ thế giới, được các trường đại học nổi tiếng của quốc tế phong tặng danh hiệu Viện sĩ Viện hàn lâm, Giáo sư danh dự.
Nhiều năm liền, Trường ĐHYHN luôn giữ kỷ lục giáo sư được Nhà nước phong tặng là giáo sư trẻ nhất ngành Y Việt Nam (tính đến thời điểm được phong), nhiều nhà khoa học nữ trẻ xuất sắc được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Kovalepskaia...
Đó không chỉ là niềm tự hào của Trường ĐHYHN, mà cho cả ngành y tế và nền khoa học Việt Nam.