Chuyện kể rằng ở thời nhà Minh ở thế kỷ 15, có một học giả nổi tiếng Trung Hoa tên là Vương Dương Minh (Wang Yangming) đã bỏ ra bảy ngày đêm để nhìn vào một cây măng nhằm hiểu về nó. Cuối cùng ông đã bị ngã bệnh và tuyên bố rằng sự nghiên cứu nhằm thông hiểu về thế giới khách quan chỉ có thể đạt được khi cá nhân trở về lại quán chiếu đời sống nội tâm. Một sử gia thiên nhiên của triều đại Thanh, Liu Xianting cũng đã viết trong tinh thần tương tự: "Ta có nghe nói rằng một miếng sắt có thể ngăn cản một khúc nam châm khỏi hấp lực một miếng sắt khác và đã bày ra thử nghiệm để xác nhận điều đó. Tuy nhiên, đó là việc không cần thiết bởi vì những thử nghiệm như thế chỉ đưa đến những sự thật nhỏ nhoi. Ta cũng nghe nói rằng củ tỏi có thể ngăn cản cục nam châm khỏi hấp lực một miếng sắt.Ta cũng chưa hề thử nghiệm điều này."
Tàu Thần Châu 11 được phóng đi từ miền Bắc Trung Quốc.
|
Đây có thể là những chuyện nhỏ của lịch sử Trung Hoa, nhưng chúng nói lên một thảm kịch lớn của tinh thần trí thức của người Hoa, vốn nằm ngủ trong học thuyết và truyền thống Khổng Mạnh, để rồi bỏ lỡ nhiều cơ hội cách mạng khoa học cho nền văn minh cổ đại lớn lao này. Đối với người Trung Hoa thời đó, mọi quy trình thực nghiệm (empirical experimentation) đều vô ích. Vì thế, khoa học của người Hoa vẫn còn ở lại với trình độ thủ công và thực dụng, không có nền tảng bằng chứng thực nghiệm để vươn lên tới chiều cao lý thuyết.
Cũng thời gian đó thì ở Âu Châu một cuộc cách mạng khoa học đang trỗi dậy như cơn thủy triều. Khi mà Hoàng Văn Minh ngồi nhìn cây măng, thì ở Ý, Leonardo da Vinci (1452-1519) đang vẽ nàng Mona Lisa với nụ cười bí ẩn, đồng thời thực hiện những thí nghiệm phẫu thuật về cơ thể con người và thiết kế những máy móc gia dụng khác. Vinci tuyên bố rằng khoa học chỉ là vô dụng và đầy những phi lý nếu nó không được minh xác bằng con đường thực nghiệm. Đó là quan điểm chung của giới trí thức khoa học Âu Châu đương thời - một lập trường tri kiến phát xuất từ siêu hình học Aristotle. Cùng lúc này, Ferdinand Magellan vừa hoàn tất chuyến viễn hành vòng quanh địa cầu lần đầu tiên, Paracelsus khám phá ra hóa học y khoa, còn Copernicus và Vesalius đã đem một cách mạng mới về vũ trụ quan và khoa học – thuyết Heliocentrism (Mặt trời là trung tâm) - với hai đại tác phẩm De revolutionibus Coelestium và De humani corporis fabrica.
Ngoài sự khác biệt về vũ trụ quan và nhân sinh quan, thì có một sự phân định quan trọng cho lý do tại sao mà cuộc cách mạng khoa học đã được khởi sinh ở Âu Châu thay vì ở Trung Hoa: sự độc tài của các cơ chế xã hội. Sở dĩ khoa học được tung cánh ở Âu Châu vào thời đó là nhờ sự xuống dốc của quyền lực giáo hội La Mã - vốn đã đè nén năng lực trí thức Tây Âu suốt mười lăm thế kỷ - sử ký gọi là "thời đại bóng tối" (the Dark Age). Cho đến khi sự độc tôn trí thức bởi giáo quyền đi vào thoái trào, thì cây cổ thụ khoa học của nhân loại được vươn lên ngay ở Âu Châu.
Khổng Tử sinh năm 551 trước CN ở nước Lỗ. Giáo lý của ông tập trung vào việc thiết lập luân thường đạo lý trong quan hệ gia đình và xã hội, đạo đức của cá nhân và nhà cầm quyền, công lý, sự chân thành và đề ra các chuẩn mực giáo dục.
|
Trong khi đó, ở Trung Hoa, mặc dù trí thức không bị áp chế bởi một giáo hội nhưng họ lại bị nghiêm trị bởi các cơ chế chính trị vương quyền. Mọi triết học và lý thuyết khoa học đều nhấn mạnh đến sự biện minh cho chính thống tính của Thiên tử và trật tự vương quốc hữu quan. The Dark Age của chính trị Trung Hoa vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.
Trên một phương diện khác, Trung Hoa mang một gánh nợ thứ hai không kém nặng nề và phản tiến bộ. Đó là một truyền thống bản thể luận thiếu minh bạch. Trong lúc khoa học Tây phương đang vươn lên không gian bao la thì người Tàu vẫn còn bị dính chằng chịt vào một thứ hệ thống vật luận (metaphysics) huyền bí và mơ hồ. Quin Renzong, giáo sư triết ở Bắc Kinh, đã viết, "Các hiện tượng đa dạng của vũ trụ đã chỉ được hiểu (bởi người Tàu) qua những hệ thức (schemes) sơ sài như là Âm-Dương, Nhu-Cương... Trong khung thức Âm-Dương, Nhu-Cương, những hệ thống vũ trụ luận đại thể (holistic cosmic systems) được thiết lập, mà trong đó sự phân biệt giữa hiện tượng thiên nhiên và những vấn đề xã hội vốn trở nên rất lu mờ. Hai hệ thống đại thể Âm-Dương và Nhu-Cương này được coi như là nền tảng của thiên văn học và là một bí thuật, không thể bị chứng minh là sai - do vậy mà không được thay đổi cả hàng ngàn năm."
Hãy thử tưởng tượng một Hi Lạp mà siêu hình học bị dừng lại ở Plato - và Aristotle không bao giờ xuất hiện. Đó chính là trường hợp của Trung Hoa. Sau Khổng Tử - mà triết học rất gần gới Plato - không còn có một triết gia tầm cỡ nào phủ định và vượt qua ông cả.
Từ đó, nền tảng bản thể học và vũ trụ luận của người Tàu bị đông lạnh. Chúng trở thành cơ sở biện minh cho chính thống chính trị vương quyền Trung Quốc suốt cả chiều dài lịch sử của họ - cho đến ngày người Cộng sản Trung Quốc đứng lên làm lịch sử với biện minh nhân dân và giai cấp mới. Tuy nhiên, bản chất đế quyền của người Trung Hoa vẫn không hề thay đổi: khép kín, độc tài, cưỡng chế, bạo lực. Chính trị hiện đại của các nhà lãnh đạo Trung Quốc chỉ là một chiếc bình mới cho một chất rượu văn hóa chính trị cổ đại mà người Trung Hoa cho đến bây giờ vẫn còn đang bị đóng khung.
Con người và văn hóa Trung Hoa mang nặng tính bảo thủ, cố chấp, và bản địa. Tính dân tộc của họ rất là cao - nhiều khi đến độ không cần thiết. Thế hệ người Hoa thứ hai, thứ ba, sinh ra ở các quốc gia khác như ở Mỹ hay ở Việt Nam, vẫn coi Trung Hoa là "mẫu quốc" và vẫn cho mình là người Hoa. Có thể nói rằng vì tinh thần văn hóa này mà người Hoa đã kiến lập một vũ trụ luận sai lầm. Khi Alexander De Rhodes đến truyền giáo ở Trung Hoa vào những thập niên đầu của thế kỷ 17, ông đã có lần viết: "Người Trung Hoa tưởng đất nước của họ là tất cả những gì đẹp nhất cõi đất. Họ bỡ ngỡ khi nhìn vào bản đồ của ta (Pháp) cho thấy nước họ chỉ nhỏ bé so với toàn quả địa cầu. Họ có bản đồ của họ, họ vẽ trái đất vuông, Trung Quốc ở giữa (vì thế mà gọi là Trung Quốc), biển ở dưới với mấy đảo nhỏ, một đảo là Âu Châu, đảo khác là châu Phi, đảo khác nữa là Nhật Bản. Do đó, chúng tôi cho họ biết họ chẳng thông thái gì hơn chúng tôi."
Đã mấy ngàn năm, trong vòng ảnh hưởng của văn hóa chính trị trưởng thượng với một vũ trụ luận giới hạn và thuần bản địa của người Tàu mà lịch sử Việt Nam quay theo. Dân tộc và lịch sử Việt tựa như là một chiếc bóng xoay vần theo một cái trục lớn, đầy thành kiến của ý thức và tâm hồn của người Tàu.
Cho đến giờ phút này.
Khi con tàu Thần Châu phóng cao lên không gian để vươn ra khỏi bầu khí quyển của trái đất, trên phương diện biểu tượng, thì đây là lúc mà văn minh Trung Hoa vừa vươn thoát khỏi chính mình - cái vòng kiềm tỏa của tính dân tộc, tính bản địa, tính lịch sử và vũ trụ luận cổ đại nay đang được bùng vỡ. Vỏ trứng gà của văn hóa thượng cổ đã không còn đủ sức mạnh biện minh nuôi dưỡng một chính thống tính chính trị đã nghịch thời. Người Hoa hôm nay đã bắt đầu nhận thức ra một thế giới phổ quát và một vũ trụ luận tương xứng với thời đại. Cơ năng internet, ý thức pháp luật, phong trào dân chủ và nhân quyền, khoa học và công nghệ Tây phương - với những ưu và khuyết điểm của chúng - đang góp phần đưa con tàu ù lì Trung Hoa tiến vào thế kỷ mới. Đây mới là một "bước nhảy vọt" văn hóa đích thực - tuy đã quá trễ - cho người Tàu.
Các gia đình giàu có muốn hòa nhập vào xã hội thượng lưu cũng như cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với người nước ngoài.
|
Sau khi hỏa tiễn Trường Chinh II F (chính thể) đẩy Thần Châu (ý thức và tinh thần) lên được không trung, thì hỏa tiễn Trường Chinh bị phế bỏ ngay sau đó. Đây là một biểu tượng ngoạn mục (và bất ngờ) cho cái năng lực vượt thoát thể chế truyền thống bằng sự vươn lên của tinh thần và ý thức - mặc dù cái thể chế đó đã huy động được nhân tài và vật lực cho chuyến tàu không gian này. Mấy giờ đồng hồ sau khi vào quỹ đạo ngoài trái đất, nhìn xuống quả địa cầu tròn trịa và một nước Trung Hoa tương đối nhỏ bé so với tất cả vũ trụ và không gian, phi hành gia Vương Lợi Vĩ đã thốt lên, "Hảo thị, hảo thị." Không biết có phải người không gian họ Vương nhận thức ra rằng đã đến lúc văn minh và tâm thức Trung Hoa thực sự được giải phóng!
Và nếu Trung Hoa đang vươn thoát ra khỏi quỹ đạo giới hạn của họ, thì Việt Nam chúng ta phải chăng cũng đã đến lúc tung mình ra khỏi quỹ đạo Trung Hoa - và chủ động giải phóng ngay cả cái vòng kiềm tỏa chất chứa đầy sức ì quá khứ của chính mình?