12 kiến nghị “gỡ khó” cho hoạt động kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
VietTimes – Cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số vừa có 12 kiến nghị liên quan mặt pháp lý, đề cập đến nhiều vấn đề như cơ chế xác thực người dùng, thanh toán, quyền tác giả trên môi trường số, cấp phép, kiểm duyệt nội dung,…
Các doanh nghiệp đã có góp ý sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật gây vướng mắc và những vấn đề chính sách - pháp lý mới nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số.
Các doanh nghiệp đã có góp ý sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật gây vướng mắc và những vấn đề chính sách - pháp lý mới nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số.

Được biết, ngày 22/04/2021, Thủ tướng Chính phủ đã gửi Công văn số 514/TTg-PL tới các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ cùng các Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các hội và hiệp hội về việc rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật gây vướng mắc, ách tắc, cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội.

Nhằm đóng góp cho tiến trình này, Hội Truyền thông số Việt Nam (VDCA) đã góp ý sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật gây vướng mắc và những vấn đề chính sách - pháp lý mới nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số.

Các ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số tập trung liên quan các quy định pháp lý vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh, gồm 3 nhóm lớn: quy định đối với dịch vụ nội dung số, quy định đối với dịch vụ trò chơi điện tử, quy định đối với dịch vụ mạng xã hội và trang thông tin điện tử tổng hợp. Trong đó, các kiến nghị có đề cập đến nhiều vấn đề như cơ chế xác thực người dùng, thanh toán, quyền tác giả trên môi trường số, cấp phép và kiểm duyệt nội dung.

Dịch vụ nội dung số

Kiến nghị thứ nhất của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số liên quan quy định đăng ký xác nhận dịch vụ nội dung số (Thông tư số 08/2017/TT-BTTTT) về xác nhận của người sử dụng tin nhắn SMS. Theo các doanh nghiệp, việc này gây bất tiện trong việc đăng ký và trải nghiệm dịch vụ của khách hàng, hạn chế việc thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ nội dung số trên mạng viễn thông. Bên cạnh đó, việc thao tác trên USSD, livescreen hay IVR xét về bản chất cũng là các thao tác bấm phím trên điện thoại, tương đương SMS nhưng lại chưa được thừa nhận là một xác nhận hợp lệ.

Cũng trong lĩnh vực dịch vụ nội dung số, kiến nghị thứ hai, các doanh nghiệp công nghệ số đề nghị quan tâm quy định về giá cước dịch vụ thông tin di động (Thông tư 14/2012/TT-BTTTT). Hiện yếu tố này bao gồm một số loại như giá cước hòa mạng, giá cước thuê bao, giá cước thông tin,… nhưng cũng không thể hiện rõ quy định về giá cước hay hình thức thanh toán của dịch vụ viễn thông GTGT, viễn thông cộng thêm, hay dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông di động. Như vậy, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ khó xác định loại dịch vụ được thu cước qua tài khoản thuê bao di động.

Dịch vụ trò chơi điện tử

Kiến nghị thứ ba, liên quan lĩnh vực dịch vụ trò chơi điện tử, quy định dịch vụ hỗ trợ thanh toán (Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 72/2013 và 27/2018) trong trò chơi điện tử gồm hoạt động dịch vụ trung gian thanh toán, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và các hình thức thanh toán khác theo quy định của pháp luật. Hiện nay, tất cả các trò chơi trên di động tại thị trường Việt Nam đang phân phối qua hai kho ứng dụng chính là CH Play và Apple Store. Theo quy định của nhà cung cấp ứng dụng, việc sử dụng kênh thanh toán của ứng dụng là bắt buộc (nếu không sẽ bị gỡ trò chơi ra khỏi kho ứng dụng).

Việc không công nhận các kênh thanh toán của ứng dụng có thể khiến các doanh nghiệp rơi vào thế bất lợi.

Việc không công nhận các kênh thanh toán của ứng dụng có thể khiến các doanh nghiệp rơi vào thế bất lợi.

“Pháp luật Việt Nam không công nhận kênh thanh toán này thì vô hình chung việc các doanh nghiệp sản xuất trò chơi điện tử ở Việt Nam sử dụng hình thức thanh toán như vậy là bất hợp pháp trong khi không có lựa chọn về kênh phân phối” – đại diện các doanh nghiệp công nghệ số cho biết.

Cùng với đó, cũng trong lĩnh vực này, kiến nghị thứ tư quy định cấp phép trò chơi điện tử (Nghị định 72/2013 và Nghị định 27/2018) yêu cầu tất cả các trò chơi điện tử đều phải thực hiện thủ tục hành chính (cấp phép hoặc đăng ký) trước khi phát hành ra thị trường.

Các doanh nghiệp phân tích, có một thực tế là bên cạnh những trò chơi điện tử phát hành thành công, có nhiều người chơi, thì cũng có rất nhiều trò chơi điện tử nhỏ có lượng người tải thấp, hoặc những trò chơi điện tử có ‘vòng đời’ ngắn, ít có khả năng gây ra tác hại cho xã hội.

Do đó, việc áp dụng chính sách quản lý đồng nhất giữa tất cả các trò chơi điện tử dẫn đến thực trạng các trò chơi điện tử mới phát hành hoặc các nhà phát triển trò chơi điện tử non trẻ (startup) đang bị quản lý quá chặt, dẫn đến gặp khó khăn trong việc đưa sản phẩm ra thị trường.

Dịch mạng xã hội, trang thông tin

Dịch vụ mạng xã hội và trang thông tin là lĩnh vực được các doanh nghiệp công nghệ số quan tâm và có nhiều kiến nghị nhất. Cả 8 kiến nghị này đều được đánh giá là xác đáng.

Trong đó, kiến nghị thứ năm trong số 12 kiến nghị của công đồng này là về quy định về điều kiện về thời gian lưu trữ dữ liệu khi cấp phép mạng xã hội (Nghị định 27/2018/NĐ-CP) yêu cầu lưu trữ tối thiểu 2 năm đối với các thông tin về tài khoản, thời gian đăng nhập, đăng xuất, địa chỉ IP của người sử dụng và nhật ký xử lý thông tin được đăng tải. Thời gian lưu trữ này là quá dài, gây tốn nguồn lực về dữ liệu.

Kiến nghị thứ sáu của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số liên quan quy định về điều kiện về tên miền trong đăng lý mạng xã hội và trang tin tổng hợp điện tử (Nghị định 27/2018/NĐ-CP) yêu cầu trang thông tin điện tử tổng hợp và mạng xã hội của cùng một tổ chức, doanh nghiệp không được sử dụng cùng một tên miền.

Tuy nhiên, “trong thực tế các thành viên mạng xã hội chia sẻ các thông tin trực tiếp từ các link báo/trang tin điện tử tổng hợp. Do đó sẽ làm khó các doanh nghiệp vận hành mạng xã hội” – đại diện các doanh nghiệp cho biết.

Thứ bảy là về quy định xử lý vi phạm trên mạng (Nghị định 27/2018/NĐ-CP, Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 72/2013 và Nghị định 27/2018) thể hiện sự thiếu công bằng và bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp xuyên biên giới. Trong khi doanh nghiệp trong nước phải xử lý trong thời hạn 03h còn doanh nghiệp xuyên biên giới phải xử lý trong thời gạn 24h (lần 1) và 24h (lần 2) khi nhận được yêu cầu từ Bộ Thông tin và Truyền thông, sau đó mới áp dụng biện pháp nghiệp vụ ngăn chặn.

Kiến nghị thứ tám của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số - cũng là kiến nghị thứ tư nếu tính riêng trong lĩnh vực Dịch mạng xã hội và trang thông tin là liên quan quy định về cấp phép và quản lý mạng xã hội (Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 72/2013 và 27/2018).

Theo quy định, Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất gắn công cụ đo của Bộ sẽ gây ra một số bất cập: (i) Hệ thống của mỗi doanh nghiệp được xây dựng dựa trên các chuẩn khác nhau, rất khó để Bộ Thông tin và Truyền thông thiết kế công cụ đo có API phù hợp với hệ thống của tất cả các doanh nghiệp, trường hợp không tương thích doanh nghiệp sẽ tốn thêm thời gian và chi phí để chỉnh sửa hệ thống; (ii) tính bảo mật của hệ thống, các lỗ hổng bảo mật của quá trình tích hợp công cụ đo có thể bị lợi dụng để tấn công vào hề thống của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước và (iii) phát sinh thêm chi phí vận hành, nhân sự quản lý công cụ đo cho cơ quan quản lý nhà nước.

Các đơn vị tiến hành tập trung rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật gây vướng mắc, ách tắc, cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội theo tinh thần Công văn số 514/TTg-PL của Chính phủ. (Ảnh minh hoạ).

Các đơn vị tiến hành tập trung rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật gây vướng mắc, ách tắc, cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội theo tinh thần Công văn số 514/TTg-PL của Chính phủ. (Ảnh minh hoạ).

Thứ chín, quy định về xác thực, định danh người dùng (Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 72/2013 và 27/2018), Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất có giải pháp bảo đảm chỉ thành viên mạng xã hội (là các tài khoản được định danh 2 lớp (xác thực tài khoản với tên thật và số điện thoại) mới được tương tác (viết bài, đăng bình luận, livestream, tặng quà,…)

Theo các doanh nghiệp, trong thực tế, việc xác thực tài khoản người dùng bằng SMS là hình thức phù hợp nhất vào thời điểm hiện tại bởi 4 lý do: (i) Đây là hình thức xác thực phổ biến hiện nay trên thế giới, vừa linh động cho người sử dụng, đồng thời đảm bảo được định danh tài khoản chính xác. (ii) Mỗi số điện thoại sẽ gắn liền với một cá nhân nhất định và hiện việc đăng ký thông tin chủ thuê bao đang được các nhà mạng làm rất tốt. (iii) Tâm lý người dùng: e ngại cung cấp thông tin thật trên mạng xã hội. (iv) Và ở Việt Nam hiện nay chưa có hệ thống dữ liệu công dân điện tử được chia sẻ với khu vực tư nhân nên không có nguồn để đối chứng việc cung cấp thông tin của người dùng là chính xác và đầy đủ.

“Ngoài ra, với quy định các thành viên mạng xã hội phải được định danh 2 lớp mới được tương tác thì người sử dụng có thể chuyển hướng sử dụng mạng xã hội nước ngoài, gây khó khắn và bất bình đẳng cho doanh nghiệp trọng và người nước cùng kinh doanh một loại dịch vụ” – các doanh nghiệp trong lĩnh vực lên tiếng.

Kiến nghị thứ mười liên quan quy định về quyền tác giả trên mạng xã hội. Hiện nay, vấn đề xâm phạm quyền tác giả trên mạng xã hội thể hiện ở nhiều dạng khác nhau và khó kiểm soát vì đặc trưng của những nền tảng số này là người dùng tạo và chia sẻ nội dung. Hiện nay, sự phân loại quyền và trách nhiệm giữa các chủ thể chưa rõ ràng và pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của chủ thể cung cấp dịch vụ trung gian trong khi đây là chủ thể quan trọng trong thời đại kĩ thuật số hiện nay (ví dụ trường hợp VNG kiện Tiktok vi phạm quyền tác giả với các sản phẩm âm nhạc thuộc quyền sở hữu của mình).

Thứ mười một, quy định về quyền tác giả khi đăng tải, chia sẻ tin bài trên trang thông tin điện tử tổng hợp (Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 72/2013 và 27/2018) quy trách nhiệm cho trang thông tin điện tử tổng hợp phải có cơ chế kiểm soát nguồn tin, đảm bảo thông tin tổng hợp đăng tải không vi phạm bản quyền. Tuy nhiên vấn đề trách nhiệm kiểm soát nội dung thông tin nên quy định cho cơ quan báo chí vì đây là nguồn khởi phát thông tin, trang thông tin điện tử tổng hợp chỉ dẫn lại nguồn và cũng không thể có cơ chế để kiểm soát và đảm bảo vấn đề quyền tác giả của nguồn tin.

ý kiến cuối, về quy định kiểm duyệt nội dung trên trang thông tin điện tử tổng hợp (Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 72/2013 và 27/2018) yêu cầu trang thông tin này phải kết nối đến hệ thống giám sát của Bộ Thông tin và Truyền thông để phục vụ cho việc theo dõi đăng tải tin bài trên trang thông tin điện tử tổng hợp và thống kê lượng người sử dụng truy cập.

Việc gắn hệ thống giám sát đối với trang thông tin điện tử tổng hợp cần xác định rõ ràng mục đích và sẽ gặp khó khăn tương như dùng công cụ đo của Bộ để thống kê số lượng người dùng.

Hội Truyền thông số Việt Nam (VDCA) đã thực hiện rà soát văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số, đồng thời tiến hành lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp này về các vấn đề pháp lý vướng mắc mà họ gặp phải trong quá trình vận hành doanh nghiệp. Kết quả khảo sát được thể hiện trong bản Góp ý sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật gây vướng mắc cho doanh nghiệp công nghệ số. Bản góp ý gồm hai phần:

- Tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành mà doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nội dung số gặp khó khăn khi thực hiện, bao gồm các vấn đề: thanh toán, kiểm duyệt nội dung, cấp phép kinh doanh. Các văn bản này bao gồm Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, Nghị định 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 72/2013/NĐ-CP. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng góp ý kiến về tính khả thi và tác động các quy định trong Bản Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 72/2013/NĐ-CP và Nghị định 27/2018/NĐ-CP được công bố ngày 23/4/2020.

- Tổng hợp các vấn đề chính sách - pháp lý phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số mà pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể để điều chỉnh gồm: quảng cáo, thương mại điện tử trên mạng xã hội; cung cấp dịch vụ nội dung nghe nhìn theo yêu cầu trên Internet; bảo vệ dữ liệu cá nhân của công dân Việt Nam đối với nền tảng công nghệ, nhất là nền tảng công nghệ xuyên biên giới.