S-400 khiến Mỹ lo sốt vó, Trung Quốc mưu dùng khống chế Biển Đông

VietTimes -- Hệ thống tên lửa S-400 TRIUMF đình đám trên truyền thông thế giới vào cuối năm 2015 khi Nga triển khai S-400 sau vụ Thổ Nhĩ Kỳ bắn hạ Su-24. Nga triển khai S-400 đã buộc Thổ Nhĩ Kỳ và liên quân phải tạm ngừng chiến dịch không kích Syria, cho thấy S-400 đáng sợ thế nào.
S-400 là thứ vũ khí đáng sợ trong chiến lược chống tiếp cận
S-400 là thứ vũ khí đáng sợ trong chiến lược chống tiếp cận

Giai đoạn này cũng minh chứng S-400 là một thứ vũ khí có ảnh hưởng chiến lược, một vai trò mà Trung Quốc (nước đầu tiên mua S-400 của Nga) có thể tìm cách thi triển trong các cuộc khủng hoảng tương lai. Vào tháng 4/2015, Nga thông báo bán 4 tiểu đoàn S-400 cho Trung Quốc. Chưa rõ Trung Quốc sẽ triển khai các vũ khí này ở đâu. Tuy nhiên, việc triển khai S-400 có thể tác động tới trật tự an ninh khu vực và ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng của Mỹ và các đồng minh trong việc phản ứng trước các cuộc khủng hoảng liên quan tới Đài Loan, Triều Tiên, biển Hoa Đông và Biển Đông.

S-400 là hệ thống phòng không tầm xa nguy hiểm nhất thế giới, với tầm bắn tối đa 400km. Hệ thống này được cho là có thể theo dõi 100 mục tiêu cùng lúc và tiêu diệt đồng thời 6 mục tiêu. S-400 cũng được cho là có khả năng tiêu diệt các máy bay độ cao thấp và các vũ khí hành trình chính xác và có tính năng cực kỳ cơ động.

S-400 Nga là một minh chứng hoàn hảo về hệ thống chống tiếp cận (A2/AD). Mục đích của A2/AD là ngăn ngừa lực lượng đối phương tiền vào một khu vực nào đó và giới hạn kẻ địch tự do hành động trong một khu vực tác chiến. Như chuyên gia Robert Haddick gần đây phân tích trên War on the Rocks, các hệ thống A2/AD gây ra vấn đề lớn cho việc phóng chiếu quyền lực của Mỹ cũng như khả năng quân đội Mỹ giữ được ưu thế công nghệ tiên phong trước các đối thủ.

Thực tế Nga triển khai S-400 bộc lộ những hệ thống vũ khí như vây có thể có những hiệu quả chiến lược rộng lớn hơn. Tên lửa S-400 nguy hiểm hơn nhiều so với các hệ thống tên lửa SAM trước đó. Nó có khả năng tấn công một số lượng lớn mục tiêu, bao gồm các máy bay tàng hình và tên lửa hành trình. Tầm bắn của S-400 lớn bao phủ một phạm vi lớn đến mức có thể uy hiếp máy bay của các nước láng giềng hoạt động trong không phận của mình. Chỉ riêng khả năng này cũng đã dấy lên nguy cơ đối với những máy bay đắt đỏ hoạt động gần khu vực S-400 được triển khai.

Một quả đạn tên lửa S-400 giá chỉ vài triệu USD có thể bắn hạ các máy bay giá trị tới hàng trăm triệu USD như máy bay trinh sát không người lái RQ-4, tiêm kích tàng hình F-22 hoặc F-35, hoặc thậm chí tồi tệ hơn là máy bay ném bom chiến lược B-2 giá lên tới hơn 2 tỷ USD mỗi chiếc. Như vậy, S-400 đưa ra một tỷ lệ giá rất thuận lợi có thể gây ảnh hưởng tới các quyết sách ở cấp độ chiến lược.

S-400 và toan tính của Trung Quốc

Được triển khai đủ số lượng và có sự phối hợp với các hệ thống phòng không tiên tiến khác, S-400 có thể tăng cường và mở rộng khả năng chống tiếp cận của Trung Quốc. Bắc Kinh hiện sở hữu các hệ thống S-300 và HQ-9 (tầm bắn 200km), các hệ thống SAM và tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21 (tầm bắn 1.500km). Được bổ sung thêm S-400, hiệu quả của các hệ thống vũ khí trên gây ra đe dọa nghiêm trọng đối với độ tin cậy trong việc bảo đảm an ninh của Mỹ với các đối tác và đồng minh có tranh chấp với Trung Quốc.

S-400 có thể giúp lực lượng Trung Quốc ngăn chặn ảnh hưởng và tạo sự uy hiếp đối với máy bay và hoạt động hàng không trong thời bình. Nga triển khai S-400 tại Syria đã minh chứng khả năng này. Trong khi Nga không thể hiện ý định sử dụng S-400 để chống máy bay Mỹ và liên quân (tuy nhiên ngoại trừ các máy bay Thổ Nhĩ Kỳ), các nhà lập kế hoạch bay trong khu vực dường như đã phải xây dựng các thủ tục mới để hướng dân các máy bay có và không có người lái hoạt động trong tầm bắn của S-400. Nếu như Nga quyết định đối đầu, S-400 có thể vô hiệu hóa hiệu quả hoạt động không quân của Mỹ, Pháp và NATO đóng trú tại Địa Trung Hải.

Tác động chiến lược của S-400 thậm chí trở nên rõ ràng hơn khi hệ thống khi được nhìn qua lăng kinh các cuộc khủng hoảng quân sự tiềm tàng hoặc khẩn cấp xung quanh phạm vi Trung Quốc. Mặc dù các nguồn thông tin  công khai về hệ thống này tại Trung Quốc không rõ ràng, nhưng có thể xác định nhiều địa điểm hợp lý S-400 có thể được triển khai. Lãnh đạo Mỹ và đồng minh không nên ngạc nhiên nếu Trung Quốc triển khai S-400 hậu thuẫn các chiến dịch chống Đài Loan, gần đảo Senkaku ở biển Hoa Đông và tại Biển Đông nhằm hậu thuẫn cho những yêu sách chủ quyền (ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế).

Triển khai tại khu vực eo biển Đài Loan, tầm khống chế S-400 chống các chiến đấu cơ không tàng hình ở độ cao trung bình và tầm cao sẽ bao quát toàn bộ lãnh thổ Đài Loan và tăng cường cho hệ thống phòng không sẵn có gồm các hệ thống tên lửa S-300 và HQ-9. Trong trường hợp nổ ra xung đột, bất cứ lực lượng không quân nào cất cánh từ Đài Loan ngay lập tức có nguy cơ bị bắn hạ. Như vậy, không lực Mỹ và hải quân Mỹ buộc phải hoạt động ở phía đông Đài Loan để tránh nguy cơ tên lửa Trung Quốc. Các máy bay tình báo, trinh sát và cảnh báo sớm hoạt động ở khoảng cách như vậy sẽ có ít khả năng giám sát hiệu quả các diễn biến ở phía tây đảo Đài Loan.

Và như vậy sẽ hạn chế khả năng sử dụng với vai trò bên thứ ba cung cấp thông tin tình báo cho Đài Loan hoặc hạn chế Mỹ ra oai thể hiện nhằm giải quyết khủng hoảng. Sẽ không có các thông tin tình báo chiến thuật chi tiết và chính xác từ các hệ thống trinh sát, cảnh báo sớm để chỉ huy tấn công, chiến đấu cơ và máy bay quân sự đòng minh (giả sử chúng tồn tại trong tầm bắn của SAM) sẽ gặp nguy cơ cao trong bất cứ cuộc không chiến nào và đối mặt hiểm họa. Các nhà hoạch định Mỹ và Đài Loan do đó phải lập kế hoạch chiếm ưu thế trên không trước Trung Quốc, buộc phải chấp nhận nguy cơ rủi ro cao đối với các máy bay Mỹ hoặc phải dự liệu việc leo thang tấn công đại lục, tiêu diệt các hệ thống tên lửa SAM di động để triệt tiêu nguy cơ.

Việc Trung Quốc triển khai S-400 dọc biên giới Triều Tiên cũng như trên bán đảo Sơn Đông sẽ cho phép khống chế hầu hết không phận Triều Tiên. Trong trường hợp nổ ra chiến tranh giữa hai miền Triều Tiên, Trung Quốc có thể triển khai hệ thống S-400 để hăm dọa Bình Nhưỡng hoặc ngăn cản lực lượng Mỹ và Hàn Quốc tiến hành các chiến dịch không kích mà Bắc Kinh xem là gây bất ổn.

Trung Quốc cũng có thể sử dụng S-400 phối hợp với các hệ thống S-300PMU và HQ-9 đặt các chiến dịch không quân từ cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ ở biển Hoàng Hải, như vậy sẽ buộc các chiến hạm Mỹ phải hoạt động ở sườn đông của bán đảo Triều Tiên. Bằng cách dùng S-400, Trung Quốc còn có thể cố gắng gây ảnh hưởng để buộc Mỹ và Hàn Quốc phải phối hợp hoạt động hàng không với quân đội Trung Quốc. Việc này có thể tạo cho Trung Quốc khả năng bóp nghẹt nhịp độ tác chiến của Mỹ và đồng minh.

Quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư nằm trong tầm bắn của S-400 triển khai tại bờ biển Trung Quốc. Việc triển khai hệ thống này trong một cuộc khủng hoảng liên quan Senkaku có thể giúp Trung Quốc gây ảnh hưởng đến cục diện tình hình. S-400 có thể hỗ trợ trên không cho các tàu bè xuất phát từ bờ biển Trung Quốc tới Senkaku. Nếu S-400 kết hợp với các chiến hạm trang bị HQ-9 phiên bản hải quân là HHQ-9 và máy bay tuần tra chiến đấu cất cảnh từ căn cứ ở đại lục, sẽ tạo ra hiệu quả phối hợp có thể nới rộng tầm bắn của tên lửa SAM bao phủ toàn bộ khu vực quần đảo Senkaku, khiến Nhật Bản sẽ khó khăn khi chiến đấu.

Các nhà lập kế hoạch của Nhật Bản và Mỹ do đó buộc phải xây dựng kế hoạch một cách cẩn trọng nhằm đối phó với khả năng này và tấn công các khẩu đội SAM, trong khi vẫn phải tác chiến bên ngoài tầm bắn của S-400 hoặc phải chấp nhận khả năng đánh mất ưu thế trên không ở khu vực quần đảo tranh chấp trong một cuộc xung đột hoặc khủng hoảng.

Việc triển khai các tàu ngầm hạt nhân chiến lược và có thể là một tàu sân bay tại đảo Hải Nam cũng là lý do để Trung Quốc đặt hệ thống S-400 và các hệ thống tên lửa tối tân khác trên đảo này. Từ đây, hiệu quả phối hợp của chúng có thể gây tác động tới khu vực phía bắc Biển Đông. Trung Quốc cũng đã xây dựng trái phép một loạt các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam, việc này có thể khiến Bắc Kinh triển khai S-400 tại Trường Sa, cho phép Trung Quốc kiểm soát không phận khu vực.

Trong trường hợp nổ ra khủng hoảng, Trung Quốc có thể sử dụng hệ thống tên lửa để kiểm soát sự hiện diện của các máy bay trinh sát nước ngoài, làm suy yếu khả năng của Mỹ và các nước khác trong việc giành lợi thế trong các hoạt động chiến thuật. Nếu xảy ra khủng hoảng quân sự với các đối thủ tranh chấp, kiểm soát không phân toàn bộ khu vực Trường Sa sẽ trao cho Bắc Kinh một lợi thế to lớn trước các nước tuyên bố chủ quyền khác.

Trong trường hợp Trung Quốc quyết định áp đặt một vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ở Biển Đông, S-400 sẽ được triển khai tại quần đảo Trường Sa, cũng như trên đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa nhằm tạo ra sự khả năng khống chế tin cậy để Trung Quốc tăng cường sức mạnh.

Tuy nhiên, học thuyết, thời tiết và sự cô lập của các hòn đảo có thể sẽ hạn chế việc sử dụng S-400 tại các đảo nhân tạo Trung Quốc xây trái phép ở Biển Đông. Bởi lẽ S-400 phụ thuộc vào tính cơ động để đảm bảo sự sống sót, triển khai S-400 trên một hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa sẽ khiến hệ thống này trở nên dễ bị tổn thương khi bị tấn công. Rồi hiệu ứng ăn mòn của thời tiết ẩm ướt và muối cũng sẽ làm cho việc duy trì, vận hành S-400 trên đảo trở nên khó khăn, đặc biệt là tại một địa điểm xa xôi, biệt lập như vậy.

Với Trung Quốc, việc tăng cường thêm S-400 và tăng cường năng lực chống tiếp cận cùng với các hệ thống tên lửa S-300 và HQ-9, tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21 (ASBM), thiết bị tác chiến điện tử và các tên lửa hành trình. Phối hợp các hệ thống vũ khí này sẽ khuyến khích Bắc Kinh tự tin để có thể thách thức khả năng can thiệp quân sự của Mỹ trong trường hợp khẩn cấp xung quanh biên giới Trung Quốc.

Nếu không có đầu tư lớn vào các công nghệ tàng hình và chống tên lửa SAM hoặc thay đổi lớn trong công tác huấn luyện và chỉ huy chiến lược khi đối đầu với các hệ thống vũ khí như vậy, Mỹ phụ thuộc vào khả năng tàng hình, tấn công điện tử, mồi bẫy và tên lửa chống radar để đối phó với các hệ thống phòng không.

Sự xuất hiện của S-400 có vẻ sẽ không thay đổi cách tiếp cận trên, nhưng sẽ đặt ra các thách thức lớn hơn đối với việc thực thi. Nếu như Mỹ chọn cách tác chiến bên ngoài tầm bao phủ của các loại vũ khí này, các nhiệm vụ hàng không sẽ không hiệu quả vì có quá ít năng lực không quân có thể tác chiến hiệu quả ở một khoảng cách xa như vậy. Chế áp bằng đòn tấn công tên lửa vào hệ thống S-400 là một khả năng, nhưng tính năng cơ động của hệ thống này khiến cho chúng trở thành các mục tiêu khó xơi. Mặt khác, leo thang xung đột bằng các đòn tấn công vào đại lục để phá hủy thiết bị là một sự lựa chọn đầy rủi ro.

S-400 đã trở thành mối đe dọa đối với không lực Mỹ, kể cả tiêm kích tàng hình thế hệ 5 F-22 (ảnh)
S-400 đã trở thành mối đe dọa đối với không lực Mỹ, kể cả tiêm kích tàng hình thế hệ 5 F-22 (ảnh)

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ và đồng minh sẽ cần nghĩ cách thức đối phó với mối đe dọa của S-400 và các vấn đề liên quan tới những hệ thống tên lửa SAM tiên tiến trong trường hợp khẩn cấp liên quan tới Trung Quốc hay một đồng minh hoặc đối tác của Mỹ. Hoặc đơn giản là họ có thể cần phải chấp nhận một cấp độ rủi ro lớn hơn. Những ý tưởng tác chiến mới có thể đòi hỏi giải quyết mối đe dọa, chẳng hạn sự phụ thuộc lớn hơn vào các máy bay tàng hình thế hệ 5 và trong tương lai là thế hệ 6 hoặc các chiến thuật tiên tiến hạn chế được sự bộc lộ của máy bay trước nguy cơ từ tên lửa SAM.

Các nhà hoạch định kế hoạch có thể cần chấp nhận khả năng tổn thất cao hơn trong  các hình thái chiến tranh công nghệ cao hoặc xem xét tái đầu tư vào các hình thái chiến tranh chi phí thấp như dùng máy bay không người lái.

Về dài hạn, các nhà quyết sách Mỹ nên vạch kế hoạch phát triển các biện pháp đáp trả S-400. Việc này có thể đòi hỏi đầu tư vào tác chiến điện tử và các biện pháp chế áp điện tử khác nhằm gây nhiễu hoặc vô hiệu khả năng bắt bám mục tiêu của hệ thống radar của S-400. Trong mọi trường hợp, S-400 sẽ trao cho người sở hữu một hệ thống vũ khí đầy quyền năng chắn chắn củng cố vững thêm chiến lược chống tiếp cận đối với quân đội Mỹ trong thời bình, cũng như thời điểm nổ ra khủng hoảng hay xung đột.

 * Lược dịch bài viết của tác giả Timothy Heath- chuyên gia phân tích kỳ cựu của Hãng  RAND Corporation.

T.N