Chuyển trục từ chữa bệnh sang phòng bệnh
Trao đổi với VietTimes bên lề hội nghị tổng kết của Bộ Y tế, PGS.TS Phan Lê Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính Bộ Y tế, cho biết sau những năm triển khai Chương trình Mục tiêu Y tế – Dân số giai đoạn 2016–2020, những giới hạn đã bộc lộ rõ.
Mô hình bệnh tật thay đổi nhanh, bệnh không lây nhiễm gia tăng, dân số già hóa, mức sinh giảm sâu, trong khi hệ thống y tế vẫn nặng về điều trị, phân tán nguồn lực và thiếu đầu tư chiều sâu cho y tế cơ sở, y tế dự phòng. Cách tiếp cận cũ không còn đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển mới.
Điểm đột phá lớn nhất của Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026–2035 là sự chuyển trục chiến lược rõ rệt, với mục tiêu tái cấu trúc toàn diện hệ thống y tế và công tác dân số..
Khác với các chương trình trước, Chương trình 2026–2035 không chỉ nhắm tới xử lý một số vấn đề sức khỏe ưu tiên bằng các can thiệp y tế đơn lẻ. Nội hàm được mở rộng, hướng tới nâng cao sức khỏe, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của người dân thông qua các can thiệp tích hợp, liên tục theo vòng đời.
Tư duy trọng tâm chuyển mạnh từ khám, chữa bệnh sang phòng bệnh chủ động, quản lý sức khỏe từ sớm, từ xa, ngay tại cộng đồng.
Thay vì tiếp cận theo từng bệnh, chương trình tập trung củng cố các trụ cột cốt lõi của hệ thống y tế, đặc biệt là y tế cơ sở và y tế dự phòng, nhằm nâng cao năng lực tổng thể.
Trong lĩnh vực dân số, chương trình không còn dừng ở kiểm soát sinh, mà mở rộng sang nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa dân số và dân số già, đồng thời giải quyết đồng thời các thách thức như mức sinh thấp và mất cân bằng giới tính khi sinh.
Đáng chú ý, nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế lần đầu tiên được xác định là một ưu tiên chiến lược và được thiết kế thành một dự án thành phần độc lập trong một Chương trình Mục tiêu Quốc gia về y tế.
Đầu tư chưa từng có và mô thức quản trị phân quyền
Dù phạm vi rộng hơn, cấu trúc chương trình được thiết kế tinh gọn, chỉ gồm 5 dự án thành phần.
Quy mô đầu tư là điểm nhấn đặc biệt. Tổng vốn thực hiện trong 5 năm đầu, giai đoạn 2026–2030, lên tới 88.635 tỷ đồng, cao gấp 4,5 lần so với Chương trình Mục tiêu Y tế – Dân số giai đoạn 2016 – 2020.
Thời gian thực hiện kéo dài 10 năm cho thấy cam kết đầu tư dài hạn, tạo điều kiện để các chính sách phòng bệnh, nâng cao chất lượng dân số và củng cố y tế cơ sở phát huy hiệu quả bền vững.
Một đổi mới mang tính nền tảng khác là mô thức quản trị. Nguyên tắc phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh.
Quốc hội quyết định tổng mức đầu tư, Thủ tướng Chính phủ giao dự toán, còn Hội đồng nhân dân các cấp được trao quyền phân bổ và điều chỉnh chi tiết trong phạm vi được giao.
Cách làm này nhằm tăng tính chủ động của địa phương, đồng thời gắn trách nhiệm với hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Ba trụ cột quyết định thành bại của chương trình
Để chương trình không rơi vào tình trạng “chủ trương lớn, triển khai yếu”, ba trụ cột được xác định rõ.
Thứ nhất là sớm ban hành đầy đủ các hướng dẫn, cơ chế và chính sách về quản lý, chuyên môn kỹ thuật.
Thứ hai là bảo đảm đủ và kịp thời nguồn lực tài chính và nhân lực, từ ngân sách trung ương, địa phương đến các nguồn vốn hợp pháp khác.
Thứ ba là quản lý, giám sát chặt chẽ theo đúng khung pháp lý về chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư công và ngân sách nhà nước.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển giai đoạn 2026–2035 không chỉ là một chương trình đầu tư lớn, mà là phép thử đối với năng lực điều hành và cải cách của hệ thống y tế Việt Nam trong thập kỷ tới.