Mối đe dọa mới với Trung Quốc
Tuyên bố của ba nước về Hiệp định AUKUS và kế hoạch của Mỹ và Anh trang bị cho Australia các tàu ngầm tấn công tầm xa chạy bằng năng lượng nguyên tử rõ ràng là có mục đích – nhằm vào Trung Quốc. Hành động này sẽ chỉ khiến cho Bắc Kinh tăng tốc gia tăng thêm số lượng tàu ngầm của họ và cả lực lượng chống ngầm để đối phó với khối liên minh mới.
Vào ngày 30/9, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng động thái của Mỹ, Anh, Australia “không chỉ gây ảnh hưởng khó lường đối với hệ thống chống phổ biến hạt nhân của quốc tế, mà còn mang tới những mối đe dọa thực tế đối với hòa bình và sự ổn định của khu vực”.
Trong bài phát biểu trước Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) ngày 16/9, Đại sứ Trung Quốc tại LHQ ở Vienna, Wang Qun, cũng cảnh báo rằng việc các nước sở hữu vũ khí hạt nhân giúp cung cấp cho các nước phi hạt nhân, như Australia, có thể “làm tăng những tác động tiêu cực đối với nỗ lực của cộng đồng quốc tế” trong việc giải quyết các vấn đề hạt nhân liên quan tới Triều Tiên và Iran.
“Việc này sẽ trở thành mối đe dọa lớn đối với Trung Quốc, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông” – ông Hu Bo, giám đốc tổ chức Sáng kiến Thăm dò Tình hình Chiến lược biển Đông (SCSPI) nói – “Mặc dù các tàu ngầm của Australia không thể được bàn giao trong tương lai gần, nhưng nó sẽ kích hoạt một cuộc chạy đua vũ trang”.
Một bản báo cáo năm 2020 của Lầu Năm Góc nói rằng Hải quân Trung Quốc có 4 tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng nguyên tử (SSBN) Type 094A, 6 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng nguyên tử (SSN) Type 093 và 50 tàu ngầm tấn công chạy bằng diesel. Type 095 SSN và Type 096 SSBN cũng đang được triển khai. Tháng 4/2020, thêm một chiếc Type 094A nhập biên chế.
Trong khi đó, Australia có 6 chiếc tàu ngầm tấn công lớp Collins chạy bằng diesel/điện năng, và họ có kế hoạch chế tạo thêm “ít nhất 8” chiếc SSN. Mặc dù các tàu mới phải đến năm 2030, thậm chí là 2040, mới có thể vận hành, nhưng các vị Bộ trưởng của Australia từng đề cập tới việc thuê một số tàu ngầm tấn công của Mỹ hoặc Anh để dùng tạm thời, phục vụ cho mục đích huấn luyện.
Hải quân Mỹ có lực lượng dưới mặt nước hùng hậu nhất thế giới, với 14 SSBN lớp Ohio và 3 lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng nguyên tử - lớp Virginia, Seawolf và Los Angeles – với tổng cộng 52 tàu. Tất cả các tàu ngầm của Mỹ đều chạy bằng năng lượng nguyên tử và vào bất cứ thời điểm nào cũng có thể triển khai 24 chiếc tới Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Thêm nữa, nếu Hải quân Mỹ đạt mục tiêu đóng 60% tàu chiến của họ trong khu vực này, họ sẽ tăng số lượng tàu được triển khai lên hơn 31.
Anh, xét về địa lý thì cách xa khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhưng lại có các lực lượng quân sự đồn trú vĩnh viễn trong khu vực này. Họ có 4 SSBN lớp Vanguard, 4 SSN lớp Astute và 4 SSN lớp Trafalgar đang hoạt động, thêm nữa là 3 chiếc lớp Astute và 1 chiếc SSN thuộc lớp mới Dreadnought đang được chế tạo. Lớp Astute và lớp Virginia nằm trong số những ứng viên mà Australia có thể mua.
“Trong vòng 18 tháng tới, Australia sẽ làm việc với Anh và Mỹ để tăng cường kiểm tra các điều kiện cần thiết để tiếp nhận tàu ngầm nguyên tử” – Nhóm tác chiến Tàu ngầm Nguyên tử mới được thành lập của Australia nói trong một tuyên bố.
Liên minh Mỹ-Anh-Australia và Bộ Tứ đang xây dựng “bức tường thành” chắn Trung Quốc
Chạy đua vũ trang
Trung Quốc không phải bên duy nhất phản đối AUKUS. Ở Ấn Độ-Thái Bình Dương, có rất nhiều nước cũng đang muốn tăng cường lực lượng dưới mặt nước. Ấn Độ, Triều Tiên và Hàn Quốc trước đó đều khởi động hoặc tuyên bố kế hoạch phát triển hạm đội tàu ngầm năng lượng nguyên tử.
Nhiều nước hay vùng lãnh thổ khác mong muốn tăng cường sức mạnh dưới mặt nước mặc dù họ không hề mạnh về năng lượng nguyên tử, ví dụ như Đài Loan – hòn đảo đang chịu sức ép quân sự lớn từ phía Trung Quốc.
“Mỹ sẽ áp hạn chế với Đài Loan. Nhưng họ có thể nới lỏng hơn với Nhật Bản và Ấn Độ, hay thậm chí là chuyển giao một số công nghệ SSN cho Ấn Độ” – Song Zhongping, chuyên gia quân sự Hong Kong, nhận định.
Ấn Độ đã nhập biên chế 1 chiếc SSBN lớp Arihant, và sẽ có thêm 3 chiếc nữa được biên chế. Họ cũng vừa trả lại một chiếc SSN lớp Akula của Nga và sẽ thuê thêm một chiếc nữa từ năm 2025. Và Nhật Bản, từ lâu đã tập trung vào sức mạnh dưới mặt nước của mình, sở hữu 20 tàu ngầm tấn công chạy bằng điện năng/diesel đang hoạt động, và 1 chiếc nữa đang được chế tạo.
“Cả Nhật Bản và Ấn Độ đều có khả năng tự chế tạo tàu ngầm nguyên tử. Và Nhật chỉ cần người Mỹ “bật đèn xanh”, Hàn Quốc cũng vậy” – ông Song nói.
Trong tháng 1 năm nay, nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un nói rằng đất nước ông đã hoàn tất bản thiết kế tàu ngầm chạy bằng năng lượng nguyên tử có khả năng khai hỏa “vũ khí hạt nhân chiến lược” và việc phát triển nó đã trong “giai đoạn kiểm tra cuối cùng”.
Đáp lại, Hàn Quốc đã đàm phán với Washington để được phép chế tạo các tàu ngầm nguyên tử. Họ đã thực hiện thành công vụ thử nghiệm phóng tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm hồi đầu tháng này.
AUKUS có làm giảm sức răn đe hạt nhân của Trung Quốc hay không?
Nguy cơ xảy ra đụng độ, tai nạn
Từ lâu, trong giới chuyên gia đã có một sự đồng thuận là: vũ khí chống ngầm tốt nhất chính là tàu ngầm.
Nhưng một số nhà quan sát cho rằng chi phí chế tạo, vận hành và bảo dưỡng tàu ngầm quá đắt đỏ. Không phải nước nào trong khu vực cũng có thể chịu nổi, hoặc sẵn sàng chế tạo tàu ngầm. Tuy nhiên, tình hình căng thẳng gia tăng lại khiến cho những nước không đủ khả năng chế tạo tàu ngầm tìm kiếm các giải pháp chiến tranh chống ngầm (ASW) khác, khi bị ép phải vào một cuộc đua của các nước lớn.
“Giải pháp “rẻ hơn” là đầu tư vào các khả năng khác, ví dụ như các tài sản quân sự có khả năng chống ngầm như các tàu mặt nước, trực thăng và máy bay có khả năng chống ngầm” – Collin Koh, chuyên gia nghiên cứu thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, ĐH Nanyang, Singapore, nhận định.
Khi được triển khai, nhiều tàu ngầm như vậy sẽ tập trung đông ở Biển Đông, vốn đã là một tuyến đường biển chiến lược đông đúc và đủ sâu để tàu ngầm hoạt động.
“Vùng biển càng đông đúc, nguy cơ xảy ra các vụ đụng độ liên quan tới lực lượng ngầm và lực lượng mặt nước càng tăng – các vụ tai nạn như va chạm với các tàu thuyền khác, bao gồm cả tàu dân sự - cũng tăng theo” – ông Koh nói.
Các tàu ngầm luôn “tàng hình” trong phần lớn khoảng thời gian hoạt động và sẽ không nổi lên mặt nước trừ khi cần thiết, điều này khiến cho cuộc cạnh tranh dưới đáy biển càng thêm nguy hiểm, ông nói, thêm rằng cần có những cơ chế mới để ngăn chặn các vụ đụng độ/va chạm dưới biển xảy ra trong khu vực.
Tuần trước, Hải quân Mỹ xác nhận tàu ngầm tấn công nguyên tử lớp Seawolf của họ, USS Connecticut (SSN-22), “đã va chạm phải một vật thể không xác định dưới nước” trong khu vực Biển Đông. Trung Quốc nói rằng họ đặc biệt quan ngại về vụ việc này.