Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 12,5 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2015; giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2015; giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 5,8 tỷ USD, tăng 0,1% với cùng kỳ năm 2015.
Trong khi một số mặt hàng giảm về giá trị so với cùng kỳ như gạo, gỗ và sản phẩm gỗ, sắn và các sản phẩm từ sắn thì nhiều mặt hàng chủ lực lại đang lấy lại đà tăng trưởng, điển hình như cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều và thủy sản.
Xuất khẩu cà phê trong tháng 10 năm 2016 ước đạt 121.000 tấn với giá trị đạt 246 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 10 tháng đầu năm 2016 đạt 1,5 triệu tấn và 2,76 tỷ USD, tăng 40,2% về khối lượng và tăng 25,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Về cao su, ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 10 đạt 140.000 tấn với giá trị đạt 183 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cao su 10 tháng qua đạt 1 triệu tấn và 1,28 tỷ USD, tăng 15,8% về khối lượng và tăng 4,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 10 ước đạt 33.000 tấn với giá trị 285 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu hạt điều 10 tháng đầu năm 2016 đạt 291.000 tấn và 2,33 tỷ USD, tăng 5,8% về khối lượng và tăng 16,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 10/2016 ước đạt 12.000 tấn, với giá trị đạt 93 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 10 tháng đạt 159.000 tấn và 1,29 tỷ USD, tăng 35,7% về khối lượng và tăng 15,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 10 năm 2016 ước đạt 687 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 10 tháng đầu năm 2016 đạt 5,7 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2015.
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2016, chiếm 54,1% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Trong đó, các thị trường có giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh là Trung Quốc (51,1%), Hà Lan (14,4%), Hoa Kỳ (14,3%) và Thái Lan (10,8%).