Tác chiến điện tử (TCĐT là tập hợp các hoạt động tác chiến theo mục tiêu, nhiệm vụ, vị trí và thời gian hoạt động của các đơn vị, phân đội thuộc lực lượng TCĐT nhằm mục đích phát hiện, làm rõ hệ thống điều hành tác chiến và các trang thiết bị điều hành tác chiến, tính năng kỹ chiến thuật hoạt động của các phương tiện hỏa lực đối phương (tên lửa, bom điều khiển), chiếm đoạt thông tin và quyền điều khiển, chế áp điện tử.
Đồng thời bảo vệ môi trường điện từ cho hệ thống và các phương tiện, khí tài điều khiển binh lực, vũ khí trang bị quân ta, chống chế áp điện tử và trinh sát điện tử của địch.
Các hình thức và phương pháp tiến hành trinh sát và gây nhiễu
Trong kế hoạch đảm bảo an ninh quốc phòng đồng thời sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xâm hại chủ quyền, lợi ích của quốc gia, ngăn chặn xung đột và chiến tranh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị quân sự và khoa học công nghệ, các cơ quan lãnh đạo quốc phòng các nước có sự quan tâm rất lớn đến các hoạt động trinh sát điện tử. Các nguyên tắc tiến hành trinh sát điện tử trong giai đoạn ngày nay bao gồm: Trinh sát toàn cầu, có trọng tâm – trọng điểm; Liên tục tiến hành các hoạt động trinh sát; Sử dụng tổng hợp tất cả các loại hình và các phương tiện khí tái trình sát; Luôn luôn liên kết phối hợp với các cơ quan trinh sát của các nước bạn.
Các loại hình trinh sát điện tử:
1- Theo các phân loại các tổ hợp khí tài trinh sát: Trinh sát điện tử; trinh sát quang điện tử; trinh sát thủy âm; trinh sát siêu âm; trinh sát địa chấn; trinh sát phóng xạ; trinh sát hóa học; trinh sát từ trường.
2- Theo tính chất và mục đích sử dụng của các thông tin thu thập: chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học công nghệ; khí tượng; thủy văn môi trường, tài nguyên khoáng sản. Trong khuôn khổ bài viết này chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự - quốc phòng.
3- Trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, trinh sát điện tử có thể theo nhiệm vụ: Chiến lược quân sự; trinh sát điện tử cấp chiến dịch và trinh sát điện tử cấp chiến thuật.
4- Theo những kênh thu thập thông tin: Tình báo trinh sát; Sử dụng kỹ thuật công nghệ; Lực lượng trinh sát quân sự; Các nguồn thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5- Theo các phương tiện mang trang thiết bị, khí tài trinh sát điện tử: Vũ trụ; hàng không; Mặt đất; trên biển và dưới biển.
Mối đe dọa lớn nhất đối với hệ thống thông tin quân đội là hệ thống thông tin và điều khiển học sóng radio trên mọi dải tần số và hệ thống thông tin kỹ thuật số truyền tín hiệu vô tuyến. Tất cả các hệ thống thông tin và hệ thống kỹ thuật số vô tuyến cấu thành lên mạng lưới điều hành quân đội và điều hành tác chiến trong chiến tranh hiện đại. Các phương tiện và khí tài trinh sát cũng tập trung khai thác chủ yếu các nguồn thông tin đã nêu. Các nguồn thông tin và mạng lưới thông tin hữu tuyến thông thường cần có biện pháp thâm nhập và các trang thiết bị đặc biệt.
Gây nhiễu điện tử chủ động – sóng điện từ gây nhiễu
Sóng nhiễu điện từ trường là các loại sóng điện từ trường trên các tần số tín hiệu không mang các thông tin hữu ích. Các sóng nhiễu điện từ trường bóp méo và che chặn các thông tin hữu ích, gây khó khăn cho việc xử lý thông tin, làm gia tăng các lỗi và sai lệch các thông tin được truyền đi theo các kênh truyền thông radio.
Nguồn phát sóng nhiễu điện từ trường có thể là tự nhiên “từ bầu khí quyển trái đất, bão tuyết, bức xạ nhiệt trái đất và bức xạ nhiệt mặt trời). Sóng nhiễu điện từ cũng có thế phát xuất từ các nguồn gốc nhân tạo như (công nghiệp, các trạm điện năng hoặc các trạm có chức năng khác nhau..). sóng nhiễu nhân tạo có thể được tạo ra có chủ ý và không có chủ ý, theo hình thức tạo thành có thể là: chủ động, xuất phát từ các đài trạm nguồn đặc biệt phát sóng nhiễu điện từ hoặc thụ động, xuất hiện những xung phản xạ từ các nguồn phát sóng radio định hướng đập vào vật gây nhiễu (các băng dây kim loại) hoặc các vật thể, vật chất trong môi trường.
Đài gây nhiễu chủ động SPN – 30M. |
Các sóng gây nhiễu có mục đích có thể phân loại thành: định hướng, ngăn chặn, quét và lướt. Các sóng gây nhiễu định hướng thường chiếm các dải tần số hẹp, không vượt quá 2 – 3 lần dải tần số mà đầu thu tín hiệu nhận hiệu quả nhất, sóng nhiễu ngăn chặn là sóng nhiễu được phát bao trùm toàn bộ phổ băng tần rộng, tần số được phát cao phổ tần số đầu thu của đối phương từ hàng chục cho đến hàng trăm lần. Phát sóng gây nhiễu dạng quét được tiến hành trong một dải tần số rất rộng, trên cả khu vực cần phải gây nhiễu và không cần phải gây nhiếu. Phát sóng gây nhiễu dạng lướt được hình thành trong quá quá trình chỉnh tần số phát trong một khoảng tần số hẹp trên một dải tần số rất rộng.
Theo tính chất thời gian, nhiễu có thể được phát liên tục hoặc phát theo các chùm xung có công suất rất lớn, theo tính chất điều tiết phát xung có thể phát sóng gây nhiễu không điều tiết hoặc phát sóng gây nhiễu có điều tiết về biên độ, tần số và pha có thể theo quy luật hoặc sóng gây nhiễu được điều tiết một cách hoàn toàn ngẫu nhiên.
Gây nhiễu điện từ thụ động – phản xạ xung radio
Gây nhiễu thụ động bằng các xung phản xạ điện từ trường – âm thanh là kết quả của các sóng điện từ radar – siêu âm (sonar) khi gặp các vật chất phản xạ lại (môi trường, khói, các tấm phản xạ hoặc các hạt các băng dây kim loại có tính chất phản xạ hoặc tán xạ ngược) các sóng tán xạ hoặc phản xạ radars – siêu âm sẽ tạo lên môi trường nhiễu loạn tín hiệu. Nhiễu phản xạ thụ động chỉ có hiệu quả với các đầu thu tin hiệu sóng radar – sonar ở chế độ phát chủ động.
Gây nhiễu thụ động chống tên lửa trên biển. |
Các vật liệu phản xạ có thể là bất cứ vật liệu nào có tính phản xạ điện từ trường, có thông số kỹ thuật điện từ trường khác với môi trường xung quanh. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã sử dụng các băng dây kim loại lưỡng cực có tính phản xạ rất cao để tạo thành các đám mây nhiễu thụ động. Đối với các phương tiện có đầu dẫn radar – siêu âm, các cường quốc nước ngoài đã sử dụng các đầu đạn mang các chất cháy có thể tạo ra các đám khói mù bức xạ nhiệt trên diện rộng, hoặc sử dụng các đầu đạn gây nhiễu thụ động bằng các sợi băng lưỡng cực nhằm che phủ mục tiêu.
Sử dụng các vật liệu phản xạ có thể tạo ra các vật thể phản xạ radar xung quanh các mục tiêu bảo vệ, các khối phản xạ thường có hình lập phương hoặc có cạnh góc vuông, có tác dụng phản xạ ngược sóng radio. Một hệ thống các khối phản xạ thụ động có thể hoàn toàn che kín mục tiêu trước các đầu đạn tự dẫn bằng radar chủ động.
Với các khối phản xạ này, có thể che chắn hoặc mô phỏng trên màn hình radar các mục tiêu như cầu, khu công nghiệp hoặc các mục tiêu cố định khác nhau. Để chống lại các đầu tự dẫn radar – hồng ngoại, công nghệ quân sự còn sử dụng một thiết bị nữa là kính phản xạ Lyneberga có chức năng phản xạ ngược các sóng điện từ trường phát xung chủ động.
Sơ đồ nguyên lý quả cầu kính phản xạ sóng điện từ Lyneberga. |
Một trong những giải pháp được hình thành từ thời chiến tranh Việt Nam đến nay vẫn được duy trì và phát triển mạnh là các anten radar phản xạ ngược lại các nguồn phát sóng radars chủ động.
Song hành cùng với các trang thiết bị, khí tài chế áp điện tử, kinh nghiệm cuộc chiến tranh đường không trên bầu trời Hà Nội đã làm xuất hiện hàng loạt những khí tài mồi bẫy các đầu đạn tự dẫn radars – hồng ngoại và các trang thiết bị nghi binh. Những bộ khí tài này có thể phát ra các nguồn tín hiệu hồng ngoại, sóng radio hoặc sóng radio – điện từ trường của radar. Một số các loại khí tài nghi binh có khả năng phát xung radar chủ động tương tự như radars chiến đấu hoặc có thể cơ động hành tiến trong đội hình.
Các phương tiện chiến đấu hiện đại như chiến hạm, xe tăng, xe bộ binh cơ giới, các phương tiện bay đều được lắp đặt các thiết bị tạo mồi bẫy hồng ngoại, các vũ khí tên lửa chống hạm, tên lửa phòng không được trang bị các thiết bị giả lập mục tiêu quang điện tử - radar. Các bộ khí tài giả lập cũng được lắp đặt trên các chiến hạm quân sự và các mục tiêu kinh tế dân sự quan trọng.
Tổ hợp nghi binh S-300. |
Nhằm vô hiệu hóa hệ thống định vị vệ tinh và dẫn đường quán tính, các nhà khoa học quân sự Belarus đã chế tạo các thiết bị ứng dụng nhằm mục đích gây nhiễu các tín hiệu từ vệ tinh. Các bộ khí tài này có tên là Optima–3 và Tuman–2. Hai bộ khí tài này có thiết kế rất đơn giản, gọn nhẹ và tiện dụng, có thể lắp đặt trên mọi phương tiện khác nhau và có tầm gây nhiễu xa đến 130 km. Bộ thiết bị này đã được Iran sử dụng để gây nhiễu hệ thống GPS của máy bay trinh sát UAV RQ -170 hiện đại nhất của Mỹ và bắt sống chiếc máy bay này.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ điện tử - truyền thông và thông tin, số lượng các phương tiện, khí tài, trang bị hiện đại phát triển rất mạnh với những tính năng kỹ chiến thuật của các đài, trạm thu phát thay đổi rất ngẫu nhiên. Hầu như mỗi nước khi phát triển hệ thống điều hành tác chiến, điều khiển hỏa lực và thông tin liên lạc đều đưa ra những thông số kỹ chiến thuật phù hợp với riêng mình, có khả năng lọc được nhiễu trong điều kiện tác chiến phức tạp của điện từ trường. Chính vì vậy các bộ khí tài tác chiến điện tử, gây nhiễu thông thường phải có công suất lớn, có dải tần số hoạt động rất rộng, các tính năng kỹ chiến thuật của các đài phát gây nhiễu cũng chứa nội hàm biến đổi ngẫu nhiên các tính năng kỹ thuật của sóng gây nhiễu, hình thức và phương pháp cũng hoàn toàn tính theo biến số và quy luật ngẫu nhiên.
Ngoài ra, cần phải tính đến đối với các siêu cường có khả năng phát triển các trang thiết bị điện tử mạnh như Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Nga, số lượng các thiết bị điện tử và khí tài TCĐT tăng gấp đôi trong vòng từ 3 – 5 năm. Thông thường, xu hướng phát triển và hoàn thiện trang thiết bị điện tử thông tin liên lạc có độ nhạy độ ổn định cao trong một số nhóm tần số ổn định, phát triển các thiết bị điều biến thông tin liên lạc hiện đại có khả năng tự động hóa cao hoặc các thiết bị phi điều biến một cách ngẫu nhiên, cho phép co hẹp lại phổ tín hiệu truyền phát và tăng cường khả năng chống nhiễu, hoàn thiện và số hóa (digital) chế độ điều khiển tần số phát. Phát triển các hệ thống radars với không gian thu phát mở rộng và lực chọn phân cực đầu thu.
Những phát triển về công nghệ buộc các loại trang thiết bị TCĐT phải hoàn thiện cả về công nghệ, tăng cường về công suất và hoàn thiện phương pháp gây nhiễu đối phương, số hóa hệ thống các đài phát gây nhiễu và tăng cường các hình thức, các phương thức gây nhiễu chủ động hoặc thụ động.
Tác chiến điện tử và chiến tranh chớp nhoáng
Kinh nghiệm từ các cuộc chiến tranh hiện đại trong giai đoạn gần đây cho thấy, để thực hiện các cuộc chiến tranh chớp nhoáng, các cuộc xung đột khu vực, đối phương thường sử dụng các loại vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh có độ chính xác cao như tên lửa hành trình – có tính năng tương tự hoặc mạnh hơn tên lửa Tomahawk, bom có điều khiển (các loại bom như GBU-31 JDAM), các loại tên lửa có điều khiển tấn công các mục tiêu trên biển và trên mặt đất như AGM-84E SLAM, hoặc các loại tên lửa phóng từ tàu ngầm UGM Tomahawk với số lượng rất lớn, từ vài trăm cho đến hàng nghìn đầu đạn trong mỗi đợt tập kích.
Các đòn tiến công có thể diễn ra từ nhiều hướng, nhiều chiều khác nhau từ đất liền, trên không, trên biển và dưới biển. Hầu hết các loại vũ khí đều được trang bị các thiết bị điều khiển học, bao gồm các hệ thống: dẫn đường quán tính, hệ thống nhận biết địa hình đường bay, hệ thống định vị vệ tinh, hệ thống theo dõi và nhận dạng mục tiêu quang điện tử.
Các mục tiêu cần tấn công đã được xác định tọa độ, hình ảnh nhận diện, các mục tiêu quan trọng như các phương tiện hỏa lực trên biển, trên đất liền (chiến hạm, các trạm đài radars, hệ thống tên lửa phòng không, chống tàu, đạn đạo, các đơn vị chiến đấu và các sở chỉ huy, đồng thời với các mục tiêu kinh tế chính trị quan trọng, các mục tiêu về truyền thông, thông tin, thậm chí các các mục tiêu dân sự như các khu chung cư, tòa nhà cao tầng …) cũng được xác định rõ ràng.
Các đòn tấn công hỏa lực ban đầu với số lượng rất lớn – hàng nghìn đầu đạn có độ chính xác cao các loại thường được tiến hành với mục đích đánh quỵ tiềm năng quốc phòng của đối phương ngay từ giai đoạn đầu tiên, tiêu diệt và vô hiệu hóa lực lượng phòng không – không quân, phá hủy các phương tiện truyền thông đại chúng và phong tỏa bầu trời, mặt biển của đối tượng tác chiến.
Trước, trong quá trình giáng đòn tấn công quy mô lớn, có độ chính xác và sức hủy diệt cao, đối phương thường tiến hành các hoạt động tình báo, trinh sát mục tiêu rất kỹ lưỡng, đồng bộ hóa các kết quả trinh sát – tình báo từ trên vũ trụ, trên không, trên biển, và dưới biển. Song hành cùng với các hoạt động chỉ thị dẫn đường mục tiêu là hoạt động TCĐT trên quy mô lớn với số lượng và công nghệ áp đảo nhằm hoàn toàn chế áp khả năng phản ứng của đối phương.
Để tổ quốc không bị bất ngờ
Những bài học kinh nghiệm trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ từ năm 1964 đến 1973 cho thấy. Trinh sát điện tử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phòng thủ đất nước. Trong suốt giai đoạn quân đội Mỹ phong tỏa Vịnh Bắc Bộ, các đài radars trinh sát đường không của Việt Nam với sự chi viện thông tin của lực lượng trinh sát và cảnh báo sớm hạm đội Thái Bình Dương Liên Xô đã theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động của lực lượng không quân – hải quân Mỹ trên Vịnh Bắc bộ, căn cứ không quân Guam và căn cứ không quân Utapao ở Thái Lan, những hoạt động tác chiến hiệu quả đã đem lại thắng lợi rất lớn trên bầu trời và vùng biển Miền Bắc.
Ngày nay, đất nước đã phát triển, đã có nhiều phương tiện, trang thiết bị khí tài trinh sát được trang bị cho lực lượng trinh sát – tình báo điện tử. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và không để bị bất ngờ. Công tác trinh sát điện tử cần được phát triển lên một tầm cao mới. Trong giai đoạn hiện nay, các lực lượng vũ trang các trang thiết bị trinh sát điện tử đã phát triển vượt bậc. Để có thể theo dõi, quản lý bầu trời và không gian biển. Cần kết hợp các hệ thống quản lý điện tử bầu trời vào mặt nước trong một thể thống nhất.
Các phương tiện trinh sát điện tử thường xuyên bao gồm các đài radar thụ động lớp Kolchuga, Vega, Tamara của Cộng hòa Séc, đài radar trinh sát điện tử Radar phòng không RV-01/Vostock-E; Valeria và các loại đài radar, các trạm sonar quân sự hoặc lưỡng dụng thông thường khác. Đây là những hệ thống radars trinh sát điện từ đã được thử thách qua nhiều thời kỳ phát triển, đáp ứng được yêu cầu tác chiến của chiến tranh hiện đại.
Do vị trí vô cùng quan trọng của biển trong điều kiện hiện nay, khi tình hình trên biển luôn có những biến động bất ngờ, có sự hiện diện quân sự của nhiều lực lượng hải quân của các cường quốc, cần xây dựng một hệ thống trinh sát trên biển và hải đảo. Truyền thống bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam luôn lấy sức mạnh toàn dân, lấy lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân làm nòng cốt. Do đó, nhiệm vụ trinh sát tình báo trên biển sẽ là nhiệm vụ của toàn dân, trong đó, lực lượng hải quân cần có những phương tiện trinh sát hiện đại.
Đó là các tàu trinh sát điện tử đa nhiệm, được trang bị các loại phương tiện và khí tài hiện đại có khả năng trinh sát điện tử trên không, trên biển và dưới biển. Song song cùng với việc xây dựng đội tàu trinh sát điện tử đa nhiệm, việc phát triển các máy bay không người lái các kích thước với các nhiệm vụ trinh sát điện tử cũng là một xu hướng phát triển mạnh mẽ và phù hợp với khả năng khoa học công nghệ trong nước, kết hợp tốt với các máy bay trinh sát và tuần biển của lực lượng cảnh sát biển hình thành nòng cốt của lực lượng TCĐT trên biển lớn.
Radar phòng không RV-01/Vostock-E. |
Đài radar trinh sát điện tử Valeria. |
Hệ thống các trạm radar trên hải đảo, trên bờ biển kết hợp với các tàu trinh sát điện tử trên biển lớn, các hạm đội tàu chiến đấu, lực lượng cảnh sát biển, lực lượng máy bay trinh sát tuần biển và máy bay không người lái được kết nối với một trung tâm chỉ huy điều hành các hoạt động tác chiến điện tử kỹ thuật số hoạt động ngày đêm hình thành một hệ thống tác chiến điện tử hiện đại, đáp ứng yêu cầu tình báo – trinh sát tình huống.
Thống kê số liệu, đánh giá và nhận định tình hình và đặc điểm của không gian phòng thủ biển và bờ biển, từ đó đưa ra những đề xuất định hướng nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu, ngăn chặn khả năng xảy ra xung đột và chiến tranh, đồng thời đáp ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại.
TTB