Điều đáng nói là sau ca phẫu thuật, bệnh nhi không cần phải phẫu thuật thêm lần nào nữa và chỉ sau can thiệp 2 giờ, người bệnh đã tỉnh và sức khỏe ổn định, có thể đi lại vào ngày hôm sau.
TS.BS Trần Đắc Đại – Trưởng khoa Tim mạch trẻ em, Trung tâm tim mạch, Bệnh viện E - cho biết, bệnh nhi này mắc bệnh tim bẩm sinh tứ chứng fallot và đã phẫu thuật sửa toàn bộ tại một bệnh viện tuyến trung ương lúc 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, gần đây, các bác sĩ phát hiện cháu bé bị hở van động mạch phổi gây suy thất phải.
“Đây là diễn tiến tự nhiên thường gặp sau phẫu thuật điều trị tứ chứng fallot. Vì vậy, các bác sĩ đã chỉ định thay van động mạch phổi qua da cho người bệnh nhi này”- TS.BS Trần Đắc Đại chia sẻ.
Tứ chứng Fallot bao gồm 4 đặc điểm: thông liên thất lớn, tắc nghẽn đường ra thất phải, hẹp van xung động, phì đại thất phải và động mạch chủ đè lên
Cũng theo TS.BS Trần Đắc Đại, thông thường đối với các trường hợp mắc bệnh này tại Việt Nam nói chung và Bệnh viện E nói riêng, các bác sĩ hay lựa chọn mổ cưa xương ngực và thay ống van động mạch phổi nhân tạo cho người bệnh. Với phương cách này, người bệnh phải trải qua một cuộc phẫu thuật lớn như phải gây mê hồi sức, cưa xương ức, liệt tim… và cắt thân động mạch phổi, khoét phễu thất phải để thay conduite động mạch phổi.
Người bệnh phải đối mặt với nhiều nguy cơ như nhiễm trùng, rối loạn chức năng tim, hẹp các miệng nối và những nguy cơ của chạy máy tim phổi nhân tạo… Tuy nhiên, đối với bệnh nhi này, thay vì mở lồng ngực để thay van động mạch phổi có mức độ xâm lấn lớn, các bác sĩ quyết định can thiệp thay van động mạch phổi qua da cho người bệnh.
“Với những ưu điểm vượt trội của kỹ thuật này, người bệnh không phải trải qua cuộc phẫu thuật nguy hiểm, không phải cưa xương ức thêm lần nữa và không gây liệt tim, không phải chạy máy tim phổi nhân tạo…”- TS.BS Trần Đắc Đại cho hay.
TS.BS Trần Đắc Đại cho biết thêm, với phương thức can thiệp này, các bác sĩ chỉ mở vào đường tĩnh mạch đùi rồi luồn ống thông lên tĩnh mạch chủ dưới đến nhĩ phải, xuống thất phải và lên động mạch phổi và lựa chọn kích cỡ van động mạch phổi phù hợp. Sau đó, đưa van động mạch phổi nhân tạo qua đường ống thông từ tĩnh mạch đùi lên động mạch phổi và tiến hành thả van động mạch phổi, nằm trong thân động mạch phổi nguyên bản của người bệnh.
“Thông qua hệ thống máy chụp mạch máu xóa nền, bác sĩ đưa dụng cụ đến vị trí thích hợp, đẩy van nhân tạo ra khỏi ống thông. Sau đó, van nhân tạo bung ra và hoạt động như một van tim bình thường”- TS.BS Trần Đắc Đại chia sẻ.
Cũng theo TS.BS Trần Đắc Đại, khi lựa chọn thực hiện kỹ thuật khó này cho người bệnh, cần đảm bảo 3 yếu tố quan trọng gồm: Người bệnh phù hợp về tiêu chuẩn, có hở van động mạch chỉ phổi với hình thái động mạch phổi được xác định kỹ càng qua chụp MSCT động mạch phổi và chụp MRI để đánh giá chức năng thất phải. Tiếp đó, thực hiện các thao tác thay van động mạch phổi qua da cho người bệnh.
Thứ hai, vấn đề mang tính quyết định, là trình độ chuyên môn của người thầy thuốc và phải có nhiều năm kinh nghiệm trong can thiệp tim mạch để có thể thực hiện thành công kỹ thuật khó này; Thứ ba là cơ sở tim mạch phải hoàn chỉnh, có đầy đủ cơ sở kỹ thuật từ phẫu thuật, điều trị nội khoa và can thiệp tim mạch, gây mê hồi sức…, cộng với trang thiết bị đồng bộ, hiện đại đảm bảo khám và điều trị các bệnh lý tim, mạch máu và các bệnh lồng ngực cho người bệnh.
Đặc biệt, trong quá trình thực hiện kỹ thuật can thiệp thay van động mạch phổi qua da, phải có một ekip phẫu thuật tim mạch sẵn sàng ứng cứu, xử trí kịp thời những biến chứng nếu có.
“Bệnh nhân được xuất viện sau 2 ngày, tái khám sau một tuần. Hiện người bệnh đã hồi phục sức khỏe, hết khó thở, hết mệt mỏi khi gắng sức và có thể trở lại học tập, sinh hoạt bình thường”- TS.BS Trần Đắc Đại nói.
Theo TS.BS Trần Đắc Đại, hiện tại có rất nhiều người bệnh nhi có chỉ định thay van động mạch phổi sau phẫu thuật tim bẩm sinh. Việc áp dụng thành công kỹ thuật thay van động mạch phổi qua da giúp người bệnh có thêm lựa chọn điều trị ít xâm lấn nhưng vẫn mang lại hiệu quả cao. Ca phẫu thuật cho thấy các bác sĩ Trung tâm tim mạch Bệnh viện E đã làm chủ được kỹ thuật khó này đã mang lại lợi ích thiết thực cho người bệnh, nhất là trẻ em mắc bệnh tim bẩm sinh, giúp người bệnh có khả năng hồi phục nhanh, giảm thời gian nằm viện, giảm chi phí điều trị.