Giáo sư Mỹ: Việt Nam là mô hình phục hồi hậu Covid-19 đáng học hỏi

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

VietTimes – Sự quan tâm của giới đầu quốc tế với Việt Nam ngày càng tăng kể từ năm 2018, theo Edmund Malesky - Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế Duke (Duke University), chuyên gia nghiên cứu Đông Nam Á.

Đà phục hồi của Việt Nam giai đoạn hậu COVID gây được sự quan tâm của giới chuyên gia
Đà phục hồi của Việt Nam giai đoạn hậu COVID gây được sự quan tâm của giới chuyên gia

Trong bài viết được đăng tải trên diễn đàn East Asia Forum, tác giả Edmund Malesky - Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế Duke, Đại học Duke và là một chuyên gia về khu vực Đông Nam Á - đánh giá Việt Nam là một mô hình phục hồi sau đại dịch Covid-19 đáng được học hỏi.

VietTimes trân trọng giới thiệu tới độc giả bài viết đã được chuyển ngữ của vị giáo sư này.

Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có thể tự hào về thành tích xuất sắc trong lĩnh vực kinh tế năm 2022.

Quốc gia này sẽ kết thúc năm với tư cách là nền kinh tế thể hiện xuất sắc bậc nhất ở Châu Á, chủ yếu là nhờ khả năng thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch khỏi Trung Quốc.

Khi các thị trường mới nổi khác đang tìm cách phục hồi hậu đại dịch Covid-19, nhiều nhà lãnh đạo của các quốc gia này đang cố gắng học hỏi mô hình của Việt Nam.

Mặc dù câu chuyện thành công của Việt Nam nghe có vẻ như một khuôn mẫu hoàn hảo khó thực hiện, nhưng thực tế lại không quá phức tạp và có thể đạt được – những nỗ lực cải cách trước đó đã đặt Việt Nam vào vị trí thuận lợi trong bối cảnh chính trị quốc tế có bước ngoặt bất ngờ.

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong năm 2022 rất ấn tượng.

Ít nhất 11 công ty Đài Loan trong chuỗi cung ứng của Apple đã chuyển tới Việt Nam và quá trình đàm phán đã bắt đầu khởi động nhằm tăng sản lượng máy tính bảng và điện thoại thông minh.

Lego đã khởi công nhà máy trị giá 1 tỉ USD ở tỉnh Bình Dương, trong đó bao gồm các tiêu chuẩn mới về môi trường để đạt được trung hòa khí thải carbon.

Các nhà đầu tư nước ngoài hiện hữu, như Samsung và Intel, đã tăng cường và mở rộng hoạt động của mình tại Việt Nam.

Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng 15% so với năm ngoái, có thêm 1.570 dự án mới với tổng giá trị 9,9 tỉ USD, tổng doanh thu xuất/nhập khẩu tăng trưởng 5,7% lên 58,3 tỉ USD.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo đà tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt 7%, trong khi con số mà Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra là 6,5% trong năm 2022.

Sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với Việt Nam đã liên tục tăng theo thời gian và càng tăng tốc trong năm 2018, thời điểm mà các hàng rào thuế quan do Mỹ thiết lập làm tăng chi phí kinh doanh ở Trung Quốc.

Nhiều công ty sản xuất lượng lớn hàng hóa của họ ở Trung Quốc, trong khi vẫn duy trì một số cơ sở ở Việt Nam để đề phòng trường hợp bất trắc.

Do hàng rào thuế quan của Mỹ, những công ty này đã thực thi kế hoạch phòng vệ và chuyển dây chuyền sản xuất sang Việt Nam.

Hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đã tăng 40% trong quý đầu tiên của năm 2019 và gần gấp đôi trong lĩnh vực công nghệ, vốn bị các hàng rào thuế quan của Mỹ nhằm vào.

Mức lương ở Việt Nam cũng là một điểm hấp dẫn khác nếu so với Trung Quốc.

Kể từ năm 2020, FDI chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc đã tăng tốc do chính sách zero-COVID nghiêm ngặt, khi mà các quy định chặt chẽ gây khó khăn cho công ty trở lại với mức độ sản xuất tiền đại dịch.

Sự chuyển dịch FDI chắc chắn sẽ gây ra sự gián đoạn trong các chuỗi cung ứng ở Trung Quốc.

Việt Nam đã nỗ lực ngăn chặn các đợt bùng phát dịch COVID-19 thông qua chiến dịch tiêm vaccine, cùng lúc duy trì sự vận hành của nền kinh tế.

Như Nikkei Asia đã nhấn mạnh khi xếp Việt Nam vào top 10 quốc gia hàng đầu trong kiềm chế COVID-19, quốc gia này đang có vị thế thuận lợi để đón các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) đang rút khỏi các khu vực có tình hình chính trị phức tạp.

Trong năm 2019, vẫn chưa rõ liệu nền kinh tế Việt Nam có đủ khả năng hấp thu để xử lý những dòng chảy hoạt động đầu tư mới hay không, khi mà cơ sở hạ tầng và vốn về con người được cho là chưa phù hợp.

Nhưng Việt Nam đã tự chứng minh rằng họ ở vị thế tốt hơn so với kỳ vọng, nhờ vào những nỗ lực cải cách sáng suốt của các nhà lãnh đạo.

Những điểm đột phá

Truyền thông quốc tế thường tập trung vào chiến dịch “đốt lò” chống tham nhũng, nhưng họ lại ít chú ý tới nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc giảm nạn tham nhũng vặt. Những nỗ lực này đã mang lại những hiệu quả đáng chú ý.

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2021 cho thấy số lượng doanh nghiệp cho rằng họ phải chi các khoản phí không chính thức trong hoạt động kinh doanh đã giảm, từ 66% trong năm 2016 xuống còn 41% trong năm 2021. Các công ty nước ngoài nói rằng họ không phải chi bất kỳ khoản phí không chính thức nào đạt 41,9%.

Một nhân tố chưa được quan tâm giúp giảm nạn tham nhũng chính là nỗ lực sắp xếp lại các quy trình tổ chức hành chính thông qua Cải cách Hành chính và Kế hoạch Chuyển đổi số Quốc gia.

Nỗ lực thực hiện chính phủ điện tử đã làm giảm nạn tham nhũng bằng cách tước bỏ một số quyền lực của các quan chức cấp thấp hơn, giảm cơ hội nhận hối lộ vốn dựa vào sự ngăn chặn từ chính quyền và sự thiếu minh bạch về các khoản phí chính thức.

Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cũng tập trung cải thiện vốn nhân lực. Những sửa đổi Luật Giáo dục Đại học năm 2018 và Bộ luật Lao động năm 2019 đã nhấn mạnh về sự cần thiết phải cải thiện vốn nhân lực.

Mặc dù lương thấp và trình độ học thức cao thu hút các FIE, nhưng họ thường xuyên phàn nàn về việc lao động Việt Nam thiếu các bộ kỹ năng cụ thể, trong khi rất khó giữ chân các lao động có kỹ năng cao.

Theo nghiên cứu về PCI năm 2021, các FIE có quan điểm lạc quan hơn về sự cải thiện vốn nhân lực tương lai trong những đánh giá của họ về giá trị của các chương trình đào tạo của Việt Nam.

FIE cũng đánh giá chất lượng lao động của Việt Nam là liên tục được cải thiện, cả về giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.

Mở rộng và tăng cường cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện khả năng hấp thụ đầu tư cũng là một mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Báo cáo PCI 2018 cho thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam không phải một yếu tố thu hút các công ty nước ngoài khi họ chọn lựa một điểm đầu tư.

Trên thang 6 điểm, mức đánh giá của nhà đầu tư đã nhảy vọt từ 3,72 (2017) lên 4,44 điểm (2021) về chất lượng đường xá, từ 4,02 lên 4,49 điểm về các tuyến đường kết nối từ cảng tới quốc lộ, từ 3,97 lên 4,41 điểm về các tuyến đường liên kết đường sắt và đường bộ.

Các doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử công nghệ cao thậm chí còn đánh giá cao hơn trong tất cả các hạng mục cơ sở hạ tầng.

Sẽ còn nhiều việc phải làm trong tất cả các lĩnh vực này. Nạn tham nhũng vẫn chưa thể gần với con số 0, vốn nhân lực và cơ sở hạ tầng vẫn còn nhiều điểm yếu.

Thế nhưng, câu chuyện thành công của Việt Nam trong giai đoạn hậu COVID-19 đã cho thấy cách mà các nước có thể thu hút được tiền tài thông qua những nỗ lực từng bước nhằm cải thiện những yếu tố căn bản nhất./.

Theo East Asia Forum