“Nhân danh cách mạng - nghiên cứu về cuộc đại tàn sát của Khmer Đỏ”:

Bài 2: Thủ đoạn duy nhất của Khmer Đỏ là mệnh lệnh của “Angkar” và súng AK-47

VietTimes -- Tại nước Campuchia thời Khme Đỏ, cơ bản không thấy các chính sách đặc trưng của “thời kỳ quá độ”, như thuyết phục, giáo dục, hạn chế, lợi dụng, cải tạo, lấy lại… Thủ đoạn duy nhất của Khmer Đỏ là mệnh lệnh của “Angkar” và súng AK-47...
Hai đồ tể Ta Mok và Khieu Shamphan bị tòa án quốc tế xét xử về tội diệt chủng
Hai đồ tể Ta Mok và Khieu Shamphan bị tòa án quốc tế xét xử về tội diệt chủng

Phân loại dân số để tái cơ cấu xã hội  

Cơ sở của việc tái cơ cấu xã hội của Khmer Đỏ trước hết là tiêu diệt thể xác một bộ phận những phần tử chống đối về chính trị, loại bỏ họ ra khỏi xã hội. Bài nói quan trọng của Pol Pot  trên đài phát thanh ngày 27/9/1977 (khi đang ở thăm Trung Quốc) tuyên bố cách mạng Campuchia là “Chủ nghĩa Xã hội”, 2% dân số của Campuchia là “phần tử phản cách mạng”, tức là khoảng 140.000 người. Đáng chú ý là lúc đó cao trào đàn áp các phần tử đối địch về chính trị trong xã hội đã qua, nhưng vẫn còn một tỷ lệ cao như thế phần tử đối địch đang chờ bị đàn áp! Qua đây có thể tưởng tượng số người bị hành quyết với tội danh “phần tử phản cách mạng” trong thời gian từ tháng 4/1975 tới cuối năm 1978 khi quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh nhiều đến mức nào.

Các nạn nhân của Khmer Đỏ bị giết bằng đủ loại công cụ
Các nạn nhân của Khmer Đỏ bị giết bằng đủ loại công cụ

Ngoài việc loại bỏ “phần tử phản cách mạng” ra khỏi tổng dân số, Khmer Đỏ còn có một chính sách độc nhất vô nhị là công khai phân loại dân Campuchia ra làm hai bộ phận có quyền lợi khác nhau. Sau khi nắm chính quyền, Khmer Đỏ gọi những nông dân vốn ở vùng nông thôn do họ kiểm soát là “Người cũ”, hoặc “Người căn cứ địa”, nghĩa là họ đã tham gia cách mạng; còn những người từ thành thị bị di chuyển về nông thôn thì bị gọi là “Người mới” hoặc “Người 17 tháng 4”, nghĩa là người được tiếp thu sau khi Khmer Đỏ tiến vào thành phố. Về nguyên tắc hai loại người này được hưởng sự đối xử chính trị và cấp phát về vật chất khác nhau; những người loại trước còn có nhiệm vụ cải tạo và giám sát người loại sau.

Ngoài việc phân loại dân số dựa vào thành thị và nông thôn ra, còn một kiểu phân loại nữa là chia dân ra làm “Người được hưởng đầy đủ quyền lợi” và “Người dự khuyết” (với ý người không được hưởng đầy đủ quyền lợi). Về sau từ loại “Người được hưởng đầy đủ quyền lợi” lại phân loại tiếp ra thành mấy loại: “Người có đầy đủ quyền lợi cấp 1” là những ai trước đây không có người thân làm việc cho chính quyền Lon Nol mà đều chỉ phục vụ cách mạng; “Người có đầy đủ quyền lợi cấp 2” là những ai vừa có người thân tham gia cách mạng lại vừa có người thân từng ở trong chính quyền Lon Nol; ngoài ra còn có “Người có đầy đủ quyền lợi cấp 3”, nhưng giới hạn cụ thể về loại này không rõ ràng.

“Người dự khuyết” cũng chia hai hạng: Hạng một là những ai có người thân phục vụ chính quyền Lon Nol, song đa số là người bình thường, cũng có một số người thân từng gián tiếp phục vụ cách mạng; hạng hai là những ai hoàn toàn không có người thân từng làm việc cho cách mạng.

Cảnh xếp hàng nhận thức ăn tại một nhà ăn tập thể thời Khmer Đỏ
Cảnh xếp hàng nhận thức ăn tại một nhà ăn tập thể thời Khmer Đỏ 

Qua sự cố ý tổ hợp và phân loại cơ cấu giai cấp xã hội kiểu đó, Khmer Đỏ trên thực tế đã phục hồi chế độ chủng tộc của xã hội vùng Nam Á. “Công dân” đã trở thành một đẳng cấp đặc biệt trong xã hội chứ không phải là thứ quyền lợi con người sinh ra đã có. Đồng thời qua biện pháp loại trừ khỏi phạm trù “công dân” những người khác biệt với mình, hoặc những người có quá khứ không tích cực tham gia cách mạng, Khmer Đỏ đã khiến việc chúng tùy ý bức hại và tước đoạt mạng sống những người nói trên có lý do “hợp pháp”, việc nhiều người bị giết cũng trở nên không có gì ghê ghớm. Tuy nói chung Khmer Đỏ chủ yếu lợi dụng số “tiện dân” này để làm những việc lao động cực nhọc, nhưng cũng đồng thời tiến hành “tái giáo dục” tư tưởng cho họ. Phương thức tái giáo dục ấy cũng có đặc điểm trực tiếp nhất, thô tục nhất giống như toàn bộ cuộc cách mạng Campuchia.

Một số “Người 17 tháng Tư” may mắn sống sót nhớ lại: hàng tuần Khmer Đỏ hoặc “Người vùng căn cứ” triệu tập hai lần hội nghị “dạy cách sống”. Trong cuộc họp bao giờ cũng nhắc lại những câu hỏi như “Có nhất trí với cách mạng không? Có còn nghĩ tới tài sản cá nhân không? Khi lao động có thực sự thấy sung sướng hay bắt buộc phải làm? Còn nhớ vợ con hay không?”.

Điều đáng nói là, những “Người căn cứ địa” và “Người có quyền lợi hoàn toàn” cũng chỉ được hưởng trên giấy các quyền lợi đầy đủ hơn loại khác, cộng thêm, họ có thể dọa dẫm chuyên chính đối với loại người kia mà thôi; thực ra trước mặt Khmer Đỏ thì họ cũng chẳng có bất kỳ “quyền lợi hoàn chỉnh” nào đáng kể. Ví dụ sau khi thực hiện tập thể hóa nông thôn, họ không có quyền tự do rời khỏi làng cũ, toàn bộ tài sản đều bị tước đoạt, ai giấu lương thực riêng nếu bị phát hiện sẽ bị xử tử. Cùng với tình hình kinh tế ngày một xấu đi, nồi cơm nhà ăn tập thể của họ cũng chỉ có cám, chẳng khác gì nồi cơm của các đối tượng bị họ chuyên chính.

Học sinh một trường ở Phnom Penh diễn lại cảnh Khmer Đỏ dùng gậy giết người trong một buổi học lịch sử
Học sinh một trường ở Phnom Penh diễn lại cảnh Khmer Đỏ dùng gậy giết người trong một buổi học lịch sử 

Chỉ tiêu "3 tấn thóc" và "kế hoạch 4 năm" - một "sản phẩm" quái đản của Pol Pot

Về kinh tế, mục tiêu của Khmer Đỏ không những loại bỏ ngành thương mại cùng các ngành kinh tế và dịch vụ có trong hình thái xã hội bình thường, mà còn muốn xây dựng một quốc gia nông nghiệp tự cấp tự túc lấy sản xuất lúa gạo làm cơ sở toàn bộ; dựa xuất khẩu gạo để xây dựng đất nước. Pol Pot nhấn mạnh chữ “nhanh”. Ông ta nói: “Chúng ta khác với họ (tức các nước XHCN khác) ở chỗ chúng ta nhanh hơn”.

Sau khi nắm chính quyền, đầu tiên Khmer Đỏ nêu mục tiêu mỗi hecta sản xuất 3 tấn thóc, trong khi trước đó Campuchia bình quân mỗi hecta chỉ sản xuất được 1 tấn. Về sau, tháng 8/1976 chính thức công bố “Kế hoạch 4 năm”, trong đó chính trị tư tưởng được coi là đòn bẩy có hiệu quả nhất, như một cán bộ nói: “Khi một dân tộc được thức tỉnh bởi giác ngộ chính trị thì họ có thể làm được tất cả. Điều các kỹ sư không làm được thì nhân dân làm được” - ý sau ông ta muốn nói người trí thức do bị ràng buộc bởi điều kiện vật chất và  kỹ thuật nên không có ý chí bằng những người bình thường. Pol Pot từng tự hỏi và tự trả lời như sau: “Chúng ta có thể thực hiện được các chỉ tiêu ấy không? Trả lời là: ở bất cứ đâu chúng ta cũng thực hiện được, chứng cớ chính là phong trào chính trị của chúng ta”.

Khi đó một lượng lớn dân thành phố di chuyển về nông thôn, xét tới lợi ích về mặt kinh tế là có thể sử dụng họ làm nông nghiệp mà không phải trả thù lao. Vùng Tây Bắc Campuchia là nơi sản xuất lúa chủ yếu của cả nước, việc sản xuất ấy là do một triệu “Người 17 tháng 4” bị đưa tới vùng này cáng đáng. Trong hai năm lao động gian khổ khai hoang và đào mương đắp đập, rất nhiều người đã chết vì đói khát, vì ăn không đủ chất và vì lao động quá sức.

Khi tin tức nhân công lao động bị giảm mạnh được báo về Phnom Penh, lãnh đạo Khmer Đỏ thường trút cơn giận dữ lên “kẻ thù giai cấp gây rối”. Thế là họ lại triển khai cuộc thanh lọc nội bộ những người Khmer Đỏ phụ trách giám sát quản lý lao công và hành quyết những “Người 17 tháng 4” bị nghi ngờ. Đồng thời các chỉ tiêu do Trung ương đặt ra trở thành nhiệm vụ chính trị, nếu không hoàn thành thì sẽ hỏi tội các cán bộ địa phương. Điều đó khiến cho các cán bộ cơ sở của Khmer Đỏ đều ra sức vắt kiệt những “Người 17 tháng 4” và nông dân. Như thế, chỉ tiêu “3 tấn một hecta” và “Kế hoạch 4 năm” với mục đích triệt để cải tạo cơ cấu nền kinh tế quốc gia đã trở thành một bộ phận hợp thành cuộc đại tàn sát.

Một bãi giết người của Khmer Đỏ
 Một bãi giết người của Khmer Đỏ

Lý luận của Pol Pot là săn lùng và tiêu diệt các “virus”

Lịch sử chứng minh, một chính quyền thực hành chuyên chính khủng bố trong xã hội thì sớm muộn cũng sẽ thực hành sự chuyên chính ấy ngay trong nội bộ tập đoàn thống trị. Bởi lẽ khi sự khủng bố có tổ chức đã trở thành thói quen và là yếu tố tạo ra thể chế, thì nó tất sẽ tìm được một mục tiêu có tổ chức cho chính bản thân nó; mà sự nguyên tử hóa (chia nhỏ?) xã hội và cá nhân sẽ làm cho tự thân tập đoàn thống trị duy nhất có tổ chức cũng trở thành đối tượng của kiểu chuyên chính ấy. Cái ngày mà sự đàn áp và tàn sát quy mô lớn trở thành khâu quan trọng trong cơ cấu xã hội do Khmer Đỏ vừa mới xây dựng nên cũng tức là lúc sự định kỳ thanh lọc trở thành một bộ phận của trật tự trong đảng.

Lý luận của Pol Pot là săn lùng và tiêu diệt các “virus”. Tháng 12/1976, khi đống hồ sơ thẩm vấn của Trung tâm S21 (Tuolsleng) ngày một chất cao, Pol Pot đã triệu tập một “Hội nghị học tập” và nói: “Chúng ta còn chưa thể biết rõ nó (virus) ở đâu. Nguồn gốc bệnh có bộc lộ thì mới khám ra bệnh. Vì nhiệt lượng của cuộc cách mạng nhân dân và cách mạng dân chủ còn thiếu…  công tác săn lùng virus trong đảng chưa có kết quả. Chúng chui rất sâu. Khi cách mạng XHCN của chúng ta tiến lên thì chúng chui vào mọi xó xỉnh trong đảng, quân đội và trong nhân dân. Chúng ta sẽ tìm ra những con virus xấu xa ấy… Nhưng nếu ta lơ là một chút thì lũ virus ấy sẽ gây nguy hại thật sự… Qua quan sát 10 năm nay, chúng ta thấy rõ là về cơ bản kẻ địch chưa biến mất, vì chúng không ngừng chui vào đảng”. Nhưng Pol Pot lại cam đoan là những con “virus” ấy cuối cùng sẽ bị vạch ra hết, vì “Đảng có rất nhiều con mắt chẳng khác gì mắt của quả dứa”.

Xương các nạn nhân của Khmer Đỏ khai quật tại một bãi hành quyết
Xương các nạn nhân của Khmer Đỏ khai quật tại một bãi hành quyết 

Đặc điểm cuộc thanh lọc nội bộ Khmer Đỏ lan rộng tới mức coi toàn bộ tổ chức chính quyền, quân đội, thậm chí toàn thể dân chúng của cả một vùng là đối tượng thanh lọc. Trong đợt thanh lọc Quân khu Đông Bắc năm 1978 đã nói ở phần trên, Trung ương nêu khẩu hiệu: cán bộ, quân nhân và thường dân của cả khu này đều là những kẻ “Thân xác Khmer, lòng dạ Việt Nam”. Kết quả chỉ trong 6 tháng họ đã hành quyết 100.000 người, chiếm từ 1/70 đến 1/80 tổng dân số cả nước. Hành quyết với quy mô lớn như thế đã không còn là vấn đề giải quyết một bộ phận người trong đảng mà là nhằm thực hiện sự trong sạch về chính trị bằng cách tiêu diệt một bộ phận rất lớn dân số của cả một vùng rộng lớn.

Địa vị của Khmer Đỏ trong lịch sử cách mạng thế kỷ XX

Người viết (Trình Ánh Hồng) cho rằng việc có tìm hiểu lịch sử nắm chính quyền hơn 4 năm của Khmer Đỏ hay không là sự thách thức đối với lý trí của nhân loại. Đó không phải là nói ở đây có khó khăn gì về học thuật đáng để bàn luận; mà là về căn bản mà nói lý trí loài người có năng lực nhận thức được và giải thích được hay không hiện tượng đẫm máu và phi lý chưa từng có ấy. Phải chăng nó đã vượt quá giới hạn cực độ của lý trí nhân loại tự nhận thức lịch sử của mình?

Chúng ta có thứ lý luận chủ nghĩa chủng tộc để giải thích cơ bản chính sách diệt chủng của bọn Phát-xít, song chúng ta có lý luận nào để có thể giải thích được việc một chính quyền trong 4 năm ngắn ngủi đóng cửa đất nước mình, phát minh ra lắm thứ tội danh không hề có, dùng thủ đoạn bạo lực nguyên thủy nhất để tiêu diệt một phần chính dân tộc mình?

Ở đây chỉ muốn đưa ra vấn đề này để bạn đọc có tâm tiếp tục suy nghĩ. Bản thân người viết cũng cảm thấy vô cùng khó hiểu. Để trả lời câu hỏi này có lẽ phải cần sự cố gắng chung của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học nhân văn, còn giới sử học thì có lẽ chỉ có tác dụng thu lượm tư liệu, cung cấp các manh mối cơ bản về sự diễn biến của cái thể chế này. Bởi vậy chúng tôi muốn sau khi nêu lên vấn đề siêu hình (hình nhi thượng) này, lại quay lại phạm trù cụ thể (hình nhi hạ - tác giả chơi chữ), từ góc độ lịch sử cách mạng thế kỷ XX thảo luận một chút về địa vị của Khmer Đỏ; may ra từ góc độ này có thể cung cấp chút ít manh mối gián tiếp cho câu hỏi trên.

Giới học giả Phương Tây có những nhận thức khác nhau về tính chất cuộc cách mạng của Khmer Đỏ là gì. Một loại quan điểm cho rằng đây là một cuộc “cách mạng nông dân triệt để”, là sự trả thù thành thị của những nông dân khởi nghĩa; hành vi bạo lực của họ không bắt nguồn từ tư tưởng của Pol Pot và Khieu Samphan, mà là kết quả của việc chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa nông dân áp đảo chủ nghĩa Cộng sản; vả lại những người lãnh đạo đảng Cộng sản Campuchia cũng thuộc giai cấp tiểu tư sản mang đậm chất lãng mạn nông dân.

Nhưng Ben Kiernan, tác giả sách “Thể chế Pol Pot” (The Pol Pot Regime), một cuốn sách rất có ảnh hưởng, dựa trên hơn 500 cuộc phỏng vấn của ông, thì cho rằng ngay cả nông dân cũng không thể sống còn được dưới chế độ này. Chính sách nông thôn của Khmer Đỏ là hy sinh lợi ích của tiểu nông. Nó hủy hoại 3 yếu tố mà nông dân Campuchia dựa vào để sinh tồn trong cả nghìn năm qua, là: gia đình, ruộng đất và tôn giáo; nó trực tiếp trói buộc họ dưới quyền lực của nhà nước, trên thực tế là xây dựng một Nhà nước nông nghiệp của những người nô lệ (Indentured Agrarian State).

Pol Pot (trái) và Ieng Sary tại Trung Quốc năm 1977
 Pol Pot (trái) và Ieng Sary tại Trung Quốc năm 1977

Đáng chú ý quan điểm của chính người Campuchia. Đương kim Thủ tướng Campuchia, ông Hun Sen, nguyên cán bộ cao cấp của Khmer Đỏ - trong cuốn “Campuchia 130 năm” (bản Hoa ngữ xuất bản tháng 4/2004, phát hành tại Campuchia và Singapore). Theo Tuần san Á châu xuất bản tại Hong Kong ngày 5/4/2004, ông Hun Sen cho rằng “Tư tưởng Cách mạng văn hóa Trung Quốc có gốc rễ là tư tưởng Mao Trạch Đông; tư tưởng của Pol Pot cũng bắt rễ từ tư tưởng Mao. Tư tưởng Mao được thực hiện ở Campuchia nhưng cũng bị chứng minh là đã thất bại”. Sau khi Hun Sen đi thăm Triều Tiên về, ông bổ sung thêm nguồn gốc sinh ra đường lối của Khmer Đỏ, cho rằng những thứ mà tư tưởng Pol Pot vượt qua tư tưởng Mao có nguồn gốc từ Triều Tiên.

Người viết cho rằng, không nghi ngờ gì nữa, Khmer Đỏ thuộc vào đường dây chủ nghĩa cực đoan thế kỷ XX, song lại là sự thừa kế những gì cực đoan nhất của cuộc cách mạng này. Sự tái cơ cấu xã hội của các cuộc cách mạng ấy vốn dĩ có một xu thế tăng tốc, cuộc cách mạng sau sớm hơn, nhanh hơn, cấp tiến hơn cuộc cách mạng trước. Khmer Đỏ là phiên bản thu nhỏ và tăng cường của các cuộc cách mạng đó.

Chứng cứ là Khmer Đỏ chỉ trong 2-3 năm đi hết chặng đường lịch sử cách mạng tái cơ cấu xã hội mà các cuộc cách mạng kia cần phải mất ít nhất 10 năm, dài nhất 30 năm. Ví dụ: nó hầu như không có cải cách ruộng đất mà tiến ngay lên tập thể hóa nông nghiệp; còn Liên Xô và Trung Quốc thì khá lâu sau khi giành chính quyền mới tiến hành tập thể hóa. Khmer Đỏ bắt đầu thực hiện “Kế hoạch 4 năm” sớm hơn nhiều so với các nước nói trên. Tại các nước đó (nhất là Liên Xô và Trung Quốc), sau khi giành chính quyền hơn 10 năm mới có các cuộc đấu tranh và thanh lọc quy mô lớn trong nội bộ đảng, còn Khmer Đỏ thì vừa vào thành thị đã triển khai ngay.

Nhưng sự rút ngắn thời gian chỉ là một mặt, điều quan trọng hơn là tính cực đoan trong chính sách của Khmer Đỏ. Tại nước Campuchia Dân chủ, cơ bản không thấy các chính sách đặc trưng của “thời kỳ quá độ”, như thuyết phục, giáo dục, hạn chế, lợi dụng, cải tạo, lấy lại… Thủ đoạn duy nhất của Khmer Đỏ là mệnh lệnh của “Angkar” và súng AK-47. Nhiều nhà nghiên cứu vạch ra: ở Campuchia không thấy có các biện pháp chủ yếu các nước XHCN khác hay dùng để thực hiện lời kêu gọi của đảng, như mit-tinh động viên hoặc tổ chức quần chúng diễu hành, thậm chí Khmer Đỏ cảm thấy những thứ đó đều là thừa.

Ngoài ra, đáng chú ý là, trong các cuộc cách mạng kể trên, gia đình với tư cách là đơn vị cơ bản của xã hội tuy đã được cải tạo lớn từ quan niệm đến hình thái, song kết cấu cơ bản vẫn tồn tại, gia đình không bị xóa bỏ. Nhưng Khmer Đỏ thì coi xóa bỏ gia đình là khởi điểm của việc tái cơ cấu xã hội, thực thi nó ngay từ trước khi giành chính quyền và sau khi giành chính quyền thì mở rộng ra khắp cả nước.

Hợp tác xã và các tổ chức cưỡng chế lao động trở thành đơn vị cơ bản nhất của xã hội. Các thành viên gia đình tùy theo giới tính và độ tuổi bị chia vào các tổ chức khác nhau, trẻ vị thành niên bị tách khỏi cha mẹ. Nam dưới 32, nữ dưới 25 tuổi không được kết hôn. Một hình thức quan trọng nữa để xóa bỏ gia đình triệt để nhất là chế độ nhà ăn tập thể. Ý nghĩa của nhà ăn tập thể không chỉ là cùng ngồi ăn uống, mà là tiêu diệt không gian riêng tư của con người trong đời sống xã hội. Khmer Đỏ coi việc xóa bỏ bữa cơm gia đình là thành tựu sáng tạo nhất của cách mạng Campuchia. Cán bộ Khmer Đỏ từng nói: thậm chí Trung Quốc vẫn còn giữ lại cái “kết cấu chủ nghĩa tư bản” này.

Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến vào giải phóng thủ đô Phnom Penh ngày 7/01/1979.
Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến vào giải phóng thủ đô Phnom Penh ngày 7/01/1979.

Khmer Đỏ không kém bất cứ ai về mặt tập trung cao độ quyền lực, hơn nữa còn có đặc điểm riêng, đó là chính trị gia tộc (clan politics). Hai lãnh tụ Khmer Đỏ cao nhất là Pol Pot và Ieng Sary là anh em đồng hao, từ khi du học ở Paris họ đã kết thành đồng minh chính trị với nhau. Mối “quan hệ thân thích” cách mạng ấy khiến cho các thành viên gia đình lãnh đạo cao cấp ấy nắm giữ hết mọi chức vụ lãnh đạo các cấp.

Điển hình nhất là Ta Mok, người lãnh đạo Khmer Đỏ Quân khu Tây nam, từng được báo chí Trung Quốc gọi là người “thiện chiến” nhất, “oai vệ” nhất, được cấp dưới kính sợ. Con người ấy chẳng những được gọi là “đồ tể” do đã tiến hành cuộc thanh lọc đẫm máu ở Quân khu miền Đông, mà còn bố trí hầu như toàn bộ thành viên gia đình mình giữ các chức vụ quan trọng về đảng, chính quyền và quân đội ở Quân khu Tây Nam (cá biệt người vào cả thủ đô Phnom Penh). Bao gồm: 2 người thông gia (lãnh đạo tổ chức đảng cấp cao nhất ở cấp vùng), 4 con trai (từ bí thư đảng nhà máy tới chỉ huy cấp sư đoàn trong quân đội), 5 con rể (từ bí thư tỉnh cho tới tư lệnh sân bay Pochentong); trong 5 con gái thì một là bí thư đảng khu Tram Kak (khu kiểu mẫu của Khmer Đỏ, bí thư cũ là chồng cô này), một là giám đốc bệnh viện… Chính mạng lưới quyền lực gia đình ấy đã khiến Ta Mok được gọi là “Bố già Ta Mok”.

Trong khi bắt các thành viên xã hội khác xóa bỏ gia đình thì Khmer Đỏ lại phát huy chức năng gia đình mình tới mức tương đương cơ cấu chính quyền. Điều đó chẳng những xuất phát từ thói “Một người làm quan, cả họ được nhờ”; mà hơn nữa, trong cái chế độ xây dựng bằng thủ đoạn đẫm máu như thế, mối quan hệ huyết thống trở thành mối quan hệ duy nhất có thể tin cậy được. “Đồ tể” Ta Mok là viên tướng Khmer Đỏ kiên trì tới cuối cùng (mãi tới tháng 4/1999 mới bị sa lưới). Đó là do hắn giết quá nhiều người nên không thể nào trở về với xã hội được nữa; mặt khác điều ấy cũng nói lên hiệu quả của lưới quyền lực gia tộc của hắn.

Điều có ý nghĩa là, mùa Thu năm 1978, khi tuổi thọ chính quyền Khmer Đỏ chỉ còn lại 2-3 tháng cuối, trong đảng có thảo luận vấn đề “cải cách”, bắt đầu từ “giáo dục”. Một số trường tiểu học được mở lại (có tài liệu nói con em những “Người 17 tháng 4” vẫn không có quyền được đi học). Mấy trăm nhà trí thức học ở phương Tây về bị giết bị tù, còn lại 15 người nhận lệnh mở một học viện kỹ thuật, tuyển sinh 300 người tuổi từ 10 đến 16. Ngoài ra thậm chí còn xét đến chuyện khôi phục lại sử dụng tiền tệ.

Khmer Đỏ tưởng rằng lịch sử còn cho chúng một cơ hội để thực hành “Chính sách kinh tế mới”, để chúng có thể lập thêm một kỳ tích mới; trong 4 năm có thể đi từ thảm họa dân tộc tới “Cải cách mở cửa”. Nhưng chúng đã lầm. Xã hội Campuchia đã bị chúng phá hủy tới mức không thể nào xây dựng lại trong tay chúng được nữa. Nhân dân Campuchia thà rằng tiếp nhận một chính quyền do người Việt Nam giúp dựng lên, ít nhất có thể làm cho họ được đoàn tụ gia đình.

Khmer Đỏ từng tự nhận đã gánh vác nhiệm vụ làm làn sóng cuối cùng của cuộc cách mạng không ngừng tăng tốc trên phạm vi toàn thế giới, song kết quả họ lại lao đầu xuống cái hố sâu  chôn theo đống xương trắng hàng triệu đồng bào của chúng.