Thông tin này được ông Đào Minh Tú – Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) – nêu tại họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 9/2023.
Theo ông Tú, hiện nay, tín dụng có tăng nhưng mức tăng so với năm ngoái vẫn còn thấp. Nguyên nhân là do nhiều lý do khách quan, trong đó có khó khăn đến từ nền kinh tế, tác động của nước ngoài và khó khăn của doanh nghiệp trong nước.
Lãnh đạo NHNN cho biết, theo số liệu mới nhất, mức giảm trung bình cho vay, đặc biệt là khoản vay mới, là 1-1,3%.
Cụ thể, lãi suất bình quân cho vay đối với các khoản vay ngắn hạn là 5,5-5,7%/năm, vay trung ngắn hạn là 5,8-10%/năm. Lãi suất của những khoản dư nợ trước đây chưa đến kỳ trả nợ và trả lãi thì có độ trễ, do huy động của các ngân hàng thương mại trước đây ở mức rất cao, thậm chí từ 10-12%, nên độ trễ hiện nay – theo tính toán của NHNN - khoảng từ 9-12%/năm.
“Nhờ sự quyết liệt, 9 tháng nhìn lại, điều hành chính sách tiền tệ đã rất mạnh mẽ, chính sách tiền tệ nới lỏng ngay từ đầu năm; điều hành linh hoạt, hiệu quả, phù hợp”, ông Tú nhấn mạnh.
11 giải pháp lớn mở rộng tín dụng
Phó Thống đốc NHNN cho biết, nhà điều hành đã đẩy mạnh việc tăng nguồn lực hỗ trợ cho doanh nghiệp khó khăn, doanh nghiệp đóng cửa, doanh nghiệp giải thể để giúp họ sớm khôi phục kinh tế, nhất là sau 2 năm chống dịch cộng với tác động kép từ ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới và trong nước. Theo đó, NHNN đã đặt ra vấn đề mở rộng tín dụng thông qua 11 giải pháp lớn.
Thứ nhất, ngay từ đầu năm, NHNN đã tạo thanh khoản, dư địa cho tổ chức tín dụng. Không có câu chuyện thiếu ‘room’ tín dụng cũng như các ngân hàng thương mại rất thoải mái nguồn lực cho vay. Ngân hàng sử dụng công cụ để tạo nguồn lực, hạ lãi suất để đầu vào của doanh nghiệp được giảm thấp.
Thứ hai, hạ lãi suất điều hành. Thông điệp cũng như chỉ đạo của NHNN với các tổ chức tín dụng là phải hạ lãi suất cho vay. Điều này đang diễn ra rất tích cực, nhất là 1 tháng gần đây.
Thứ ba, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật (như Thông tư 06 là một điển hình) tạo dư địa pháp lý cho các tổ chức tín dụng cung ứng sản phẩm mới, tạo thêm cạnh tranh, điều kiện cho vay nhiều hơn, đồng thời cũng tạo thêm điều kiện buộc các ngân hàng thương mại phải tính đến câu chuyện giữ khách hàng và hạ lãi suất.
Thứ tư, tái cơ cấu lại các khoản nợ, khoản lãi đến hạn nếu còn khó khăn. Cụ thể, với Thông tư 42 ngay từ đầu năm, đến nay có hơn 120 nghìn tỉ đồng đã được thực hiện.
Thứ năm, gói tín dụng chuyên đề của Chính phủ cũng như của ngân hàng như gói 40 nghìn tỉ đồng của ngân sách để hỗ trợ 2% lãi suất, gói 120 nghìn tỉ đồng để hỗ trợ nhà ở xã hội, gói 15 nghìn tỉ đồng cho kinh doanh thủy sản cũng như xuất khẩu gỗ (hiện nay đã cho vay được gần 6 nghìn tỉ đồng). “Nếu như dùng hết gói 15 nghìn tỉ đồng này, chúng tôi lại chỉ đạo các ngân hàng thương mại sẵn sàng cung ứng để giải quyết những khó khăn trước mắt cho 2 lĩnh vực này”, ông Tú nói.
Thứ sáu, cải cách thủ tục hành chính, hạ phí để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, các thành phần kinh tế để tháo gỡ vướng mắc ngay tại cơ sở; phối hợp với chính quyền địa phương, ngành nghề, hiệp hội về cơ chế chính sách…
Các giải pháp tiếp theo là truyền thông; rồi phối hợp với chính quyền địa phương, các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp… để cùng chính quyền địa phương xác định tại địa phương mình có những cơ chế, chính sách gì còn vướng mắc để cùng tháo gỡ. Ngoài ra cần tiếp tục tăng cường tín dụng, tăng cường có các chính sách xã hội và chính sách tiêu dùng, tín dụng tiêu dùng…
Giải pháp cuối cùng là hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Các ngân hàng tiếp tục phát hành trái phiếu nếu đủ điều kiện đảm bảo an toàn, đồng thời tham gia với tư cách là nhà đầu tư vào các trái phiếu của doanh nghiệp.
“Hy vọng trong 3 tháng cuối năm, thông lệ tín dụng sẽ tăng nhanh lên. Ngân hàng sẽ thực hiện các biện pháp quyết liệt cùng với sự đồng hành của các địa phương, tạo điều kiện để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vươn lên trong bối cảnh kinh tế khó khăn”, ông Tú nói./.