Sự phát triển của công nghệ hiện đại đã xuất hiện hai chủng loại tàu ngầm khác nhau, đó là tàu ngầm năng lượng hạt nhân và tàu ngầm diesel điện (bao gồm tàu ngầm Kilo đang có trong biên chế của hải quân nhân dân Việt Nam). cả hai chủng loại tàu đều có những tính năng kỹ thuật khác nhau, từ đó mỗi loại tàu ngầm có một ưu điểm riêng biệt và có những nhiệm vụ đặc trưng riêng.
Hiện nay, các cường quốc hải quân, sở hữu các tàu ngầm hạt nhân, đang có xu hướng nâng cấp, hiện đại hóa và phát triển các tàu ngầm hạt nhân đa nhiệm, có khả năng thực hiện những nhiệm vụ chiến lược, đồng thời cũng thực hiện các nhiệm vụ thông thường cấp chiến dịch và chiến thuật.
Trong lĩnh vực tác chiến cấp chiến dịch chiến thuật, tàu ngầm diesel - điện như tàu Kilo đóng vai trò lực lượng tấn công chủ lực, đặc biệt trong các vùng nước giới hạn hẹp. Thời bình, bảo vệ an ninh biên giới biển, các khu vực lợi ích kinh tế, tàu ngầm diesel – điện là lực lượng thường trực chiến đấu quan trọng trong hệ thống phòng thủ vùng biển đất nước.
Tàu ngầm diesel - điện Improved Kilo 636.1 được trang bị trong lực lượng Hải quân Việt Nam
Các nhiệm vụ chủ yếu của tàu ngầm diesel điện
Trong thời bình
Tìm kiếm, truy quét và theo dõi các tàu ngầm chiến lược của đối phương, bí mật theo sát và nắm chắc mọi hoạt động các cụm binh lực hải quân chủ lực (CVBG) của đối phương, sẵn sàng tiến hành các đòn tấn công nhanh chóng và quyết liệt, bẻ gãy mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền, xâm lược biên giới, hải đảo khi xảy ra tình huống chiến tranh.
- Tiến hành các hoạt động tuần tiễu, sẵn sàng tác chiến trên các tuyến phòng thủ chống ngầm;
- Luôn duy trì và tăng cường khả năng chiến đấu của binh chủng, duy trì vũ khí trang bị, phương tiện ở cấp độ sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
- Không để đối phương nắm bắt được những hoạt động của lực lượng tàu ngầm (căn cứ, các tuyến cơ động, vị trí đóng quân tạm thời, hành lang tuần tiễu chống ngầm ..v.v).
Trong thời chiến
Nhiệm vụ quan trọng thứ nhất của tàu ngầm là tiêu diệt các tàu ngầm các loại của đối phương; thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên tuyến phòng ngự chống ngầm yểm trợ lực lượng hải quân tham gia tác chiến; bí mật, bât ngờ tiêu diệt các cụm tàu chủ lực tấn công của đối phương, các chiến hạm và các tàu vận tải; triển khai các trận địa thủy lôi phục kích hoặc phòng thủ.
Ttiến hành các hoạt động trinh sát, dẫn đường cho các lực lượng không – hải tấn công lực lượng hải quân địch; chỉ thị mục tiêu cần tiêu diệt – bao gồm cả chiến hạm nổi và tàu ngầm; đổ bộ lực lượng đặc công, đặc nhiệm, trinh sát, vận chuyển vũ khí đạn, nhu yếu phẩm cho các vị trí xung yếu cần giữ bí mật hoặc bị phong tỏa.
Tiến hành các hoạt động trinh sát tuyến hành quân, khí tượng, thủy văn môi trường phục vụ cho các hoạt động tác chiến: cứu hộ các phi hành đoàn không quân hải quân; tấn công tiêu diệt các mục tiêu trên khu vực đối phương đánh chiếm hoặc các mục tiêu quan trọng trong lãnh thổ đối phương.
Đặc trưng chiến thuật của tàu ngầm diesel - điện
Những tính chất đặc trưng của tàu ngầm diesel hiện đại ngày nay, đó là tập hợp những tính năng chiến thuật và những đặc trưng kỹ thuật, từ đó xác định được khả năng thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu được giao cho tàu ngầm.
Tàu ngầm là phương tiện chiến đấu mà ưu thế của nó chủ yếu dựa và tính đặc trưng nhất – tuyệt đối bí mật trong mọi hoạt động chiến đấu trên biển.
Do đặc điểm môi trường tác chiến, vũ khí trang bị và tốc độ cơ động, tàu ngầm phải đảm nhiệm những nhiệm vụ chiến đấu ngầm, tính bí mật – bất ngờ đóng vai trò quyết định sự sống còn và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Bí mật được thể hiện trên 3 yếu tố chính:
- Không bị đối phương phát hiện trong mọi hoạt động thời bình và thời chiến;
- Khả năng phát hiện được đối phương đang theo dõi;
- Khả năng thoát ra khỏi sự theo dõi và duy trì lại trạng thái bí mật ban đầu;
Để duy trì được tính bí mật trong các hoạt động tác chiến, tàu ngầm diesel cần duy trì những yêu cầu kỹ chiến thuật sau:
- Mọi hoạt động của các trang thiết bị trong tàu phải đảm bảo độ ồn thấp nhất (quy trình hoạt động của các trang thiết bị, khí tài, các bộ phận trong tầu phải hoạt động theo quy định kỹ thuật, duy trì cường độ âm thanh ở mức thấp nhất;
- Đảm bảo giữ gìn tình trạng kỹ thuật của thân vỏ tàu luôn đáp ứng mọi chuẩn kỹ thuật của nhà sản xuất, từ đó giảm được cường độ các trường vật lý ở mức độ thấp nhất;
- Lựa chọn được phương án cơ động tối ưu.
Những hình thái chiến thuật chủ yếu của tàu ngầm diesel điện.
- Cơ động vượt biển, triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu
- Trinh sát theo dõi mục tiêu
- Tác chiến chống các chiến hạm nổi của đối phương
- Tác chiến chống tàu ngầm
- Vượt phòng tuyến chống ngầm của đối phương
- Cơ động phục kích đánh địch
- Tấn công các mục tiêu ven biển bằng tên lửa hành trình.
Do đặc điểm bí mật của tàu ngầm diesel, các đối tượng tác chiến của tàu ngầm được đánh giá theo mức độ ưu tiên và ý nghĩa của mục tiêu.
- Nhóm mục tiêu hàng đầu của tàu ngầm là: tàu sân bay các loại, tàu đổ bộ, tàu vận tải cơ sở vật chất đi cùng, tàu vận tải trang thiết bị. Đây cũng là các mục tiêu có ý nghĩa nhất của hạm đội đối phương khi tác chiến trên biển xa, được bảo vệ cẩn mật nhất do đặc điểm kém hơn về hệ thống phòng thủ chống ngầm và phòng không. Sự tổn thất của các hạm tàu này sẽ gây khó khăn rất lớn cho đối phương khi tiến hành các hoạt động tác chiến.
- Nhóm mục tiêu thứ hai là các tàu ngầm, đặc biệt là các tầu ngầm nguyên tử và các tầu ngầm diesel - điện hiện đại mang tên lửa hành trình. Trên phòng tuyến chống ngầm của thế trận phòng thủ biển đảo, trọng trách chống ngầm được giao chủ yếu cho tàu ngầm diesel - điện.
- Nhóm mục tiêu thứ ba của của tàu ngầm là các chiến hạm nổi như tàu tuần dương, khu trục, hộ vệ tên lửa, các chiến hạm chống ngầm.
- Nhóm mục tiêu thứ tư của tàu ngầm diesel – điện là các mục tiêu ven biển, mặt đất như các khu căn cứ hải quân, hải cảng, các tàu neo đậu và các cụm mục tiêu cố định trên mặt đất khác……
Cơ động vượt biển và triển khai đội hình thực hiện nhiệm vụ chiến đấu
Cơ động hành quân đến điểm tập kết và triển khai đội hình chiến đấu có thể được thực hiện bởi một tàu ngầm, một phân đội tàu ngầm hoặc một cụm chiến hạm hiệp đồng binh chủng.
Cơ động hành quân và triển khai đội hình tác chiến là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của tàu ngầm diesel trong cả thời chiến lẫn thời bình. Để giữ được tuyệt đối các yếu tố bí mật khi thực hiện nhiệm vụ, các tàu ngầm thường xuyên hoạt động với cấp độ cảnh giới cao độ.
Tuyến cơ động đường biển bắt đầu từ căn cứ tập kết tàu ngầm, tuyến triển khai đội hình hành quân, đường hành quân, vị trí tập kết và triển khai đội hình thực hiện nhiệm vụ.
Để giữ được bí mật cao nhất, khu tập kết hành quân được quyết định theo mệnh lệnh của cấp chỉ huy cao nhất hoặc tư lệnh trường Vùng hải quân và được giữ bí mật đến thời điểm phát lệnh hành quân. Trong thời gian đó, các tàu ngầm thực hiện nhiệm vụ bổ xung vũ khí, đạn, phương tiện chiến đấu và thực hiện các công tác kỹ thuật. Sau khi nhận lệnh xuất phát các tàu ngầm hướng về khu vực tập trung bí mật.
Tại khu vực tập trung bí mật, các chỉ huy trưởng nhận nhiệm vụ cơ động hành quân về khu tập kết để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời cũng nhận được các chỉ lệnh cần thiết về đường hành quân, địa hình đáy biển, các thông số về thủy văn, môi trường, thời tiết, các hướng dẫn về hoa tiêu, dẫn đường, hướng đi, các điểm định hướng bẻ góc lái, các độ sâu theo hải trình, khu vực có hoạt động các các loại tàu, khu vực có thể có thủy lôi, tàu ngầm nguyên tử đối phương hoặc tuyến trinh sát chống ngầm đối phương. Thời gian và khu vực tập kết. Các quy định về thông tin liên lạc, các quy định về công tác truy tìm.
Qua trình cơ động trên biển là quá trinh hành quân chiến đấu trong điều kiện phức tạp của khu vực tác chiến, các tàu ngầm xuất phát từ vị trị triển khai đội hình hành quân, nghiêm ngặt tuân thủ các quy định về bảo mật và thông tin, cơ động ở độ sâu theo chỉ định, đồng thời tập trung quan sát, theo dõi mọi tình huống diễn ra dưới biển, không liên lạc ở chế độ phát, mà chỉ nhận mệnh lệnh thụ động. các trường hợp trao đổi thông tin với cấp trên hoặc với tàu bạn phải rất nhanh, ngắn, trên tần số bảo mật.
Cơ động hành quân tàu ngầm
Để đảm bảo cơ động bí mật, an toàn, đội hình cơ động phải được duy trì chặt chẽ, tuyến đường hành quân, vị trí các tàu ngầm phải được xác định chính xác và bám sát nhằm tránh khả năng lạc đội hình, cơ động lệch hướng hoặc bộc lộ lực lượng, kẻ thù có thể xác định được có tàu ngầm đang hoạt động trong khu vực.
Cơ động của lực lượng tàu ngầm nằm trong một kế hoạch tác chiến hiệp đồng quân binh chủng rộng lớn, bao gồm các lực lượng trinh sát, cảnh giới, các lực lượng tuần biển và hoạt động chống ngầm, các lực lượng hải quân mặt nước và phòng thủ bờ biển.
Tuyến hành lang hành quân của tàu ngầm được đảm bảo an toàn, tránh được các khu vực, trận địa chống ngầm của đối phương, khu vực hoạt động của các lực lượng chiến hạm nổi và ngầm đối phương, khu vực hoạt động thương xuyên của lực lượng không quân hải quân đối phương, đồng thời nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ của không quân – hải quân ta.
Cơ động hành quân của tàu ngầm diesel, do các tính năng kỹ thuật hạn chế hơn so với tàu ngầm nguyên tử, phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu, thủy văn, môi trường, dòng nước ngầm trong biển.
Điều này đòi hỏi người sĩ quan chỉ huy, hoa tiêu, thủy thủ đoàn phải rất thông thuộc, hiểu cặn kẽ đến từng chi tiết vùng nước, vùng biển trong hành lang cơ động của tàu ngầm, có phản ứng nhanh sáng tạo, hiểu biết sâu và chắc tính năng kỹ thuật tàu ngầm, các bộ phận, trang thiết bị trên tàu, đồng thời phải liên tục nắm bắt và xử lý kịp thời những thông tin thường xuyên về tình hình môi trường biển, hành động cụ thể, kiên quyết và chính xác nhằm giữ được khả năng hoạt động tối ưu nhất của tàu ngầm, duy trì được tốc độ và hải trình, đến điểm tập kết đúng thời gian quy định và đảm bảo được bí mật trong hành quân.
Trong điều kiện tác chiến cụ thể, phân đội tàu ngầm cơ động đến một khu vực tập kết nhất định từ nhiều hướng khác nhau, do đó, sở chỉ huy cấp trên sẽ quy định thời gian tập kết, khu vực tìm kiếm và phương thức tìm kiếm nhằm tập hợp lực lượng, sẵn sàng triển khai đội hình chiến đấu.
Đội hình chiến đấu được triển khai tùy theo yêu cầu nhiệm vụ được giao, có thể là: tuần thám khu vực được giao, trinh sát và theo dõi các lực lượng của đối phương, tấn công tiêu diệt lực lượng hải quân địch, phục kích chống ngầm, tấn công tiêu diệt các mục tiêu trên biển hoặc các mục tiêu trên bờ biển bằng tên lửa hành trình.v.v..
Trinh sát theo dõi mục tiêu
Trinh sát là một trong những hình thái chiến thuật quan trọng của hoạt động tác chiến với mục đích nắm bắt thông tin và nghiên cứu, xử lý thông tin thu thập được nhằm xác định về tình hình đối phương bao gồm: số lượng, biên chế trang bị, tình trạng binh lực và khả năng, tính chất những hoạt động của đối phương và ý đồ tác chiến.
Trinh sát cũng được thực hiện nhằm nắm bắt được những đặc điểm đặc trưng cụ thể của chiến trường, khu vực có thể xảy ra hải chiến. Trinh sát có thể ở cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Với tàu ngầm diesel điện, nhiệm vụ trinh sát thông thường được giao ở cấp chiến thuật theo tính năng kỹ chiến thuật tàu ngầm.
Các phương tiện trinh sát tàu ngầm diesel điện được trang bị bao gồm: trinh sát bằng các đài sonar trinh sát ở chế độ thụ động, các thiết bị thu thủy âm; trinh sát bằng đài radar chế độ thụ động, ở điều kiện tàu ngầm đang hoạt động ở độ sâu tiềm vọng và các an ten thu được đẩy lên trên mực nước biển và trinh sát bằng kính tiềm vọng;
Hoạt động tác chiến chống chiến hạm nổi.
Hoạt động tác chiến chống các tàu nổi được hiểu là hoạt động tác chiến chống một cụm không quân hải quân chủ lực CVBG, công kích các đoàn tàu quân sự, các đội tàu và các tàu hoạt động độc lập, lực lượng đổ bộ của đối phương và tác chiến trong đội hình binh chủng hợp thành, phối hợp tác chiến chống các cụm tàu chủ lực của địch trong một trận chiến đấu trên biển.
Tác chiến chống các cụm chiến hạm nổi thông thường sử dụng vũ khí chủ yếu là ngư lôi và tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm. Mục đích chính là đánh chìm hoặc gây tổn thất nặng nề cho đối phương ngay từ loạt đạn đầu tiên. Do đó, khi tiến hành các hoạt động tác chiến, hải đoàn tàu ngầm thường được chia thành đội trinh sát hỏa lực và đội công kích chủ lực.
Chiến thuật của tàu ngầm diesel lớp Kilo
Chiến hạm trúng ngư lôi tàu ngầm.
Đội tàu ngầm trinh sát hỏa lực: Là một thành phần chiến thuật của đội hình chiến đấu, đội tàu ngầm có nhiệm vụ phát hiện mục tiêu cụm tàu đối phương, theo dõi, xác định các thông tin chiến thuật như số lượng và chủng loại, tọa độ và hướng cơ động, dẫn đường cho đội tàu công kích chủ lực và chỉ thị mục tiêu tiêu diệt.
Đồng thời cũng sử dụng vũ khí trang bị tiến công tiêu diệt địch khi có điều kiện thuận lợi. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, đội tàu ngầm trinh sát hỏa lực sẽ cơ động trên vùng nước được giới hạn bởi tuyến trinh sát mục tiêu.
Tuyến trinh sát mục tiêu được hiểu là vùng nước mà ở đó, tàu ngầm có thể phát hiện và theo dõi cũng như nắm bắt được đầy đủ các thông tin cần thiết về đối phương bằng trang thiết bị trinh sát.
Phương pháp tìm kiếm mục tiêu phụ thuộc độ sâu lặn ngầm, điều kiện thủy văn môi trường, thủy âm, địa hình đáy biển và diện tích khu vực cơ động trinh sát và trang thiết bị khí tài cần thiết để phát hiện mục tiêu (sonar, radar).
Khi phát hiện mục tiêu, đội tàu trinh sát thông báo những thông tin thu nhận được cho chỉ huy trưởng hải đội tàu ngầm. Chỉ huy phân đội căn cứ tình hình thực tế, giao nhiệm vụ cho chỉ huy đội công kích chủ lực hoặt yêu cầu tiếp tục theo dõi mục tiêu.
Sơ đồ đội tàu ngầm trinh sát
Đội tàu ngầm công kích chủ lực là lực lượng tàu ngầm có trang bị ngư lôi và tên lửa chống tàu, có nhiệm vụ tập kích đối phương bằng đòn tấn công có tính quyết định. Đội tàu ngầm chủ lực được bố trí cơ động trên khoảng cách thuận tiện cho việc trinh sát dẫn đường tiếp cận đối phương nhanh chóng và có thể quan sát, theo dõi địch bằng chính khí tài của mình.
Để thực hiện điều đó, sở chỉ huy hải đoàn căn cứ vào thông tin thu được vạch ra đường cơ động của đối phương và điểm chạm địch, điểm chạm địch được xác định sao cho thời gian mà phân đội cơ động đến tuyến chiến đấu phải ngắn hơn thời gian cụm chiến hạm đối phương tiếp cận.
Đội tàu ngầm công kích triển khai đội hình trên tuyến chiến đấu đi ngang điểm chạm địch cắt ngang đường cơ động của đối phương. Sở chỉ huy đơn vị xác định chủng loại mục tiêu, tọa độ, tốc độ, tinh chất của các mục tiêu. Từ đó lên sơ đồ tác chiến và ra quyết tâm chiến đấu.
Cơ động chiến đấu là hành động mà các tàu ngầm lựa chọn như đường cơ động, hướng cơ động theo các mục tiêu đã phân công, chiếm vị trí thuận lợi để triển khai đòn tấn công từ vũ khí trên tàu và giảm thiểu tối đa nguy hiểm từ vũ khí địch, vị trí tiếp theo để tiếp tục tấn công các mục tiêu còn lại.
Sơ đồ chiến đấu trên hải đồ bao gồm cả các đường cơ động của mục tiêu. Đường cơ động chiến đấu của tàu ngầm được vẽ trên bản đồ sở chỉ huy đơn vị cũng như bản đồ tác chiến của mỗi tàu ngầm ngay từ khi khí tài trinh sát như sonar, radar phát hiện ra mục tiêu cho đến khi kết thúc trận đánh.
Sơ đồ tàu ngầm tấn công sử dụng ngư lôi
Khi tiến hành tấn công, các tàu ngầm lựa chọn vùng công kích, khái niệm vùng công kích được hiểu là vùng nước mà ở bất cứ vị trí nào trong vùng nước đó, tàu ngầm đều có thể tấn công mục tiêu bằng một loạt ngư lôi. Vị trí mà tàu ngầm có thể phóng loạt ngư lôi (2 ngư lôi liên tiếp trở lên) được gọi là vị trí tấn công trên đường cơ động của tàu ngầm.
Do đặc điểm giới hạn của bình ắc quy điện, tàu ngầm diesel khi tiếp cận mục tiêu phải lựa chọn đường cơ động sao cho khoảng cách tấn công phù hợp nhất và dự kiến được số lượng và loại ngư lôi, khoảng cách phóng sao cho trong mọi tình huống, ít nhất có một ngư lôi trúng mục tiêu.
Các tàu ngầm diesel, được trang bị tên lửa hành trình, có những đặc điểm riêng trong tác chiến hiện đại, tàu ngầm có thể sử dụng tên lửa hành trình bằng các phương tiện dẫn đường, chỉ thị mục tiêu có trên tàu hoặc theo thông tin được cung cấp từ máy bay trinh sát tầm cao, máy bay trinh sát tác chiến điện tử hay các tổ trinh sát mục tiêu.
Thông tin dẫn đường có thể là không ảnh, dữ liệu tọa độ mục tiêu so với vật chuẩn, tọa độ mục tiêu dựa trên thông số ô vuông bản đồ khu vực hoặc thông số tọa độ kinh vĩ độ địa lý…thông thường, các dữ liệu chỉ thị mục tiêu được cung cấp bởi cơ quan chỉ huy cấp cao, sở chỉ huy điều hành tác chiến phân đội tàu ngầm.
Theo đó, phần tử bắn được nạp vào đầu tự dẫn của tên lửa trước khi phóng đạn. Do các mục tiêu trên biển sẽ dịch chuyển ra khỏi vị trí xác định ban đầu, các đầu tự dẫn tên lửa được trang bị thiết bị radar chủ động hoặc điện tử - quang ảnh nhằm xác định chính xác mục tiêu cần tiêu diệt.
Tàu ngầm Kilo sử dụng tên lửa Club-S tiêu diệt mục tiêu khủng bố IS ở Syria
Sơ đồ tàu ngầm sử dụng tên lửa hành trình chống tàu nổi
Tên lửa hành trình thường được sử dụng khi các mục tiêu cần tấn công nằm ngoài vùng quan sát của các khí tài trinh sát (radar, sonar). Do đó, khi sử dụng tên lửa hành trình, các tàu ngầm lựa chọn vùng phóng tên lửa.
Vùng phóng tên lửa thông thường được lựa chọn là vùng không gian biển lớn, cách xa khu vực có sự hiện diện các phương tiện tác chiến mặt nước khác của đối phương, nhưng không vượt quá tầm bay của tên lửa, đồng thời số lượng và loại tên lửa được phóng từ tàu ngầm phải phủ kín vùng nước chiến hạm đối phương đang cơ động nhằm đảm bảo mục tiêu chắc chắn bị tiêu diệt.
Số lượng tên lửa được phóng và khoảng cách tối ưu lựa chọn dựa vào tính năng kỹ chiến thuật tên lửa, số lượng và loại mục tiêu, khả năng phòng không của địch, yếu tố bí mật bất ngờ và phương án tránh đòn phản kích của vũ khí chống ngầm địch.
Tàu ngầm triển khai trận địa thủy lôi thông minh
Ngoài hai loại vũ chính chống tàu nổi là ngư lôi và tên lửa hành trình, một vũ khí có hiệu quả tác chiến rất cao và thuận lợi cho phòng thủ là thủy lôi.
Nhờ tính bí mật cao, tàu ngầm có thể triển khai các tuyến thủy lôi ngăn chặn, phong tỏa hoặc các trận địa thủy lôi bí mật, bất ngờ trên các cửa cảng, căn cứ quân sự đối phương, trên các tuyến đường hành quân hoặc bố trí các trận địa thủy lôi phòng thủ khu vực biển, đảo, các vùng có luồng lạch hẹp và các vịnh.
Thủy lôi thông thường được triển khai thông qua ống phóng ngư lôi và nhờ các trang thiết bị định vị, hoa tiêu chính xác của tàu ngầm, cũng như nhờ những tiến bộ vượt bậc của công nghệ, thủy lôi được lắp đặt các hệ thống điện tử, sensor và máy tính, loại vũ khí này trở lên thông minh hơn, có khả năng tự hành, tự khởi động và tấn công mục tiêu trên mọi độ sâu cũng như trên khoảng cách rộng lớn.
Thủy lôi sau khi được phóng ra khỏi tàu ngầm, có thể tự hành đến khu vực trận địa, triển khai các sensor thủy âm, điện từ trường, sonar thụ động ở chế độ chờ dài ngày, và khi mục tiêu đến, có thể chủ động tiếp cận và tiêu diệt mục tiêu.
Trong mọi thời gian, kể cả thời bình và thời chiến, lực lượng tàu ngầm luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Do hiệu quả chiến đấu cao, kẻ thù tiềm năng luôn tìm mọi cách xác định tàu ngầm của đối phương đang ở vị trí nào trên biển hoặc đang neo đậu ở căn cứ nào?
Mọi hoạt động của tàu ngầm từ khi được biên chế cho đến khi hết thời hạn phục vụ đều được giữ bí mật tuyệt đối. Các tàu ngầm trong điều kiện thời bình cũng phải thực hiện nhiệm vụ tuần biển bí mật, bảo vệ các mục tiêu quan trọng như căn cứ, khu kinh tế trên biển, đảo, quần đảo đồng thời bí mật theo dõi mọi hành động của đối phương.
Thực tế cho thấy, tàu ngầm có nhiệm vụ chiến đấu luôn ở trạng thái sẵn sàng với đầy đủ vũ khí trang bị, các cơ quan chỉ huy, tham mưu, kỹ thuật và hậu cần. Khi chuyển sang thời chiến, cũng là lúc các thủy quái – tàu ngầm minh chứng cho sự hiện diện của mình bằng những đòn tấn công kinh hồn ngay từ giây phút đầu tiên.
T.T.B (Nguồn: Chiến thuật tàu ngầm Hải quân Xô viết)