Cuộc đối thoại với chủ đề: “Thực thi mục tiêu phát triển trong trạng thái bình thường mới” được tổ chức ngày 13/07/2021 tại Hà Nội, do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Trường Đại học Indiana và Viện Sáng kiến Việt Nam tổ chức, kết nối với 59 điểm cầu tại các địa phương cả nước.
Tham gia Hội nghị, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng có bài phát biểu với chủ đề: "Cơ hội trong chuyển đổi số của các địa phương". Trong đó Bộ trưởng nói lên cơ hội của của việc phát triển chuyển đổi số trong đại dịch Covid-19: “Covid-19 chính là cú huých trăm năm để đẩy nhanh CĐS. Việt Nam cần tận dụng được món quà này của Covid để Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đi đầu trong CĐS, để sau Covid chúng ta sẽ xuất hiện ở một trạng thái mới - một xã hội được số hoá toàn diện”.
Bộ trưởng Hùng phân tích: Thế giới bây giờ phẳng và mở và vì thế mà cũng mong manh, dễ bị tổn thương. Kinh tế toàn cầu thì cũng kéo theo dịch bệnh toàn cầu. Phản ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn với những thay đổi nhanh, phức tạp và khó lường là dấu hiệu của quản trị hiện đại. Bị quật ngã nhưng đứng dậy nhanh là dấu hiệu của chính quyền có sức chống chịu cao. Mỗi thách thức mới lại tạo ra một sự phát triển mới, đó là chính quyền thông minh. CĐS là nhằm làm cho chính quyền hiện đại hơn, thông minh hơn và có sức chống chịu cao hơn.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng: CĐS là để giải quyết bài toán rất nan giải hiện nay là: Chúng ta đang làm việc hybrid, tức là nửa trên máy tính, nửa ngoài máy tính. Và vì vậy rất khó kiểm soát hoạt động của nhân viên. Nếu làm bằng giấy cả 100% thì dễ kiểm soát hơn là nửa này, nửa kia. Và vì vậy, nhiệm vụ của CĐS là đưa mọi hoạt động của chính quyền lên môi trường số. Nhân viên sẽ làm việc chỉ trên một môi trường duy nhất, kết thúc giai đoạn hàng chục năm qua là nửa này nửa kia.
Giai đoạn 2, giai đoạn ứng dụng CNTT, là số hoá các quy trình. Trong một tổ chức thì có quy trình đã số hoá, có quy trình chưa, nếu các quy trình đã số hoá hết thì lại chưa có liên kết ngang. Và vì vậy mà dẫn đến nửa này nửa kia. Giai đoạn ứng dụng CNTT chính là giai đoạn hybrid. CĐS là để kết thúc giai đoạn hybrid này. Sứ mệnh của nó là vậy.
Bộ trưởng chia sẻ: Chúng ta đang chuyển từ thế giới thực vào thế giới online. Những gì chúng ta đang làm trong thế giới thực thì sẽ có một phiên bản như vậy trên môi trường số. Một trong những việc quan trọng nhất của chính quyền là cung cấp dịch vụ công. Bởi vậy, việc đầu tiên của chính quyền online là 100% dịch vụ công lên online. Hiện nay, 60% dịch vụ công của các Bộ/ngành và địa phương đã lên online. Mục tiêu là 100% vào cuối năm nay. Các địa phương nào muốn làm nhanh, trong 1-2 tháng đạt 100% dịch vụ công trực tuyến thì liên hệ với Cục Tin học hoá của Bộ TT&TT để được hỗ trợ.
Bộ trưởng cũng thừa nhận một số hạn chế hiện nay trong cách tiếp cận với chuyển đổi số của người dân đồng thời khẳng định những lợi thế của chuyển đổi số: "Người Việt chúng ta thì ứng biến nhanh nhưng kiến thức nền tảng thì ít chú ý. Các quyết định nhiều khi là trực quan, ít dựa trên sở cứ và dữ liệu. Vậy có cách nào khắc phục không? Nếu mỗi chúng ta đều có một trợ lý am hiểu luật pháp và nghiệp vụ, làm việc 24/7 và lúc nào cũng bên cạnh ta, thì các tai nạn pháp lý, nghiệp vụ sẽ giảm thiểu rất đáng kể. Đó là trợ lý ảo nhưng giao diện với chúng ta là bằng ngôn ngữ nói tự nhiên thông qua điện thoại thông minh. Đây là các trợ lý chuyên ngành hẹp nên rất dễ làm cho nó thật thông minh. Càng dùng nhiều thì trợ lý này sẽ càng thông minh và trợ giúp càng đắc lực. Tỉnh có 30.000 cán bộ, công chức viên chức thì sẽ được bổ sung thêm 30.000 lao động nữa, mà lại là lao động có chuyên môn và chuyên nghiệp. Chất lượng công việc tăng lên và chất lượng cuộc sống cũng tăng lên. Chuyển đổi số thường là cách tốt nhất để giải quyết các bài toán mục tiêu kép”.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phân tích những khó khăn trong chuyển đổi số: Có một khó khăn khác nữa của bất kỳ địa phương nào là đào tạo quy trình làm việc. Con người bây giờ có quá nhiều mối quan tâm và vì thế rất khó chú tâm vào một việc. Học thì nhanh quên. Và lại có quá nhiều thứ phải học. Cứ mỗi lần có thay đổi gì, về quy định mới hay quy trình làm việc mới, là lại phải đào tạo, huấn luyện hàng chục, hàng trăm ngàn người. Vậy có cách nào không đào tạo mà vẫn là đào tạo không?
Nếu như mọi người đều làm việc trên một nền tảng số, các quy định và quy trình làm việc đều đã được tích hợp vào trong nền tảng này, mọi hoạt động đều diễn ra trên nền tảng này, tách ra khỏi nền tảng là không làm việc được, các bước đã được lập trình và con người chỉ phải ra quyết định Yes or No ở từng bước thì cái hay quên nhất, dễ nhầm nhất là quy trình thì không bao giờ bị sai vì máy đã nhớ hộ con người. Và khi có một thay đổi mới, một quy trình mới thì chỉ cần lập trình lại nền tảng, và ngày hôm sau thì cả trăm ngàn người sẽ làm việc theo quy trình mới giống nhau như một, như là đã qua cả năm đào tạo, đó là vì không theo quy trình mới thì máy tính không chạy. Và đây cũng là cách tốt nhất để nâng cao mặt bằng của đội ngũ công chức, viên chức nhà nước.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh vai trò CĐS trong công tác đào tạo: Đào tạo tri thức chuyên môn sẽ là một khó khăn nữa đối với bất kỳ tổ chức nào. Tổ chức đào tạo tập trung thì tốn kém và cán bộ công chức bận việc cũng rất khó tìm được thời gian đi học. Cán bộ lãnh đạo thì còn ít thời gian hơn nữa để đi học. Và kết quả là cán bộ của ta ít được cập nhật kiến thức, làm việc theo kinh nghiệm.
Nhưng nếu có một nền tảng đào tạo online, đưa nội dung đào tạo lên nền tảng, mọi người có thể tự học, tự thi lúc rảnh rỗi thì vấn đề sẽ được giải quyết. Mỗi quý có thể yêu cầu mỗi cán bộ công chức học một khoá ngắn và phải thi đạt yêu cầu. Nội dung gì thì do địa phương quyết định. Có bộ phận thiết kế nội dung cho sinh động. Nền tảng đã có sẵn các công cụ hỗ trợ thiết kế nội dung nên công việc làm nội dung cũng đơn giản đi nhiều. Nền tảng cũng hỗ trợ việc thi online. Một quý 90 ngày, ai muốn học, muốn kiểm tra bất kỳ lúc nào cũng được. Linh hoạt như vậy thì cán bộ, công chức sẽ rất vui vẻ để học. Các địa phương cần có một nền tảng đào tạo trực tuyến.
Đặc biệt, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định: "CĐS thì phải luôn hướng tới người dân. Chúng ta đã nói đến các nền tảng số cho chính quyền. Chúng ta có nên phát triển các nền tảng số để hỗ trợ người dân không? Người dân luôn là mục tiêu cuối cùng của chúng ta. Hỗ trợ người dân tốt thì cũng sẽ giảm tải cho cả hệ thống chính quyền. Bởi vậy, việc xây dựng các nền tảng hỗ trợ người dân nên được coi là công việc của chính quyền. CĐS chính quyền thì nội dung quan trọng là CĐS đối tượng phục vụ của chính quyền. Công khai thông tin để người dân có thể truy cập qua mạng là bước đầu tiên. Một trợ lý ảo để người dân có thể hỏi về các vấn đề pháp lý, về dịch vụ công của chính quyền là bước tiếp theo. Một nhà tư vấn ảo, người dân đưa vào các thông tin để hỏi nhà tư vấn này xem nên làm gì, là CĐS mức cao. Tất cả những nội dung này nghe thì có vẻ phức tạp nhưng thực tế triển khai thì không phức tạp và có thể mang lại giá trị thực tiễn rất lớn cho người dân".
Bộ trưởng khẳng địn các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển các nền tảng này. Vấn đề còn lại là chính quyền thay đổi, điều chỉnh thể chế để chấp nhận các mô hình vận hành mới trên không gian mạng. Bởi vậy mà nhiều người nói, CĐS là cuộc cách mạng về thể chế nhiều hơn là cuộc cách mạng về công nghệ.
Bộ trưởng đặt câu hỏi: Tại sao nhiều dự án CNTT không thành công, không mang lại hiệu quả như mong muốn? Không phải do CNTT khó mà lại là do CNTT dễ. Để viết được một sản phẩm CNTT 4-5 điểm, tức là chạy được, thì rất nhiều người làm được, nhà nhà có thể làm được. Nhưng sản phẩm CNTT 4-5 điểm mà đưa vào sử dụng thì bất tiện hơn là không có, và vì vậy, không được đón nhận. Chỉ có sản phẩm CNTT xuất sắc thì mới thay thế được cách làm cũ. Nhưng một sản phẩm CNTT xuất sắc thì lại rất không dễ, số người có thể làm được giảm xuống đáng kể. Bởi vậy mà việc chọn đúng người làm có ý nghĩa quyết định đến thành công của một dự án CNTT.
Cuối cùng Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định: Một trong những yếu tố quyết định thành công và hiệu quả của ứng dụng CNTT là hãy biến nó thành một nền tảng làm việc của toàn bộ tổ chức, nếu không vào nền tảng này là không làm việc được, mọi hoạt động của công chức, viên chức phải được thực hiện trên nền tảng, không còn công việc nào diễn ra ngoài nền tảng. Và cũng vì vậy mà có thể giao việc cho từng người trên nền tảng, theo dõi kết quả công việc trên nền tảng theo thời gian thực, đánh giá tự động kết quả công việc của từng đơn vị cũng như của từng người, cũng là trên nền tảng. Quản trị thực thi sẽ rất khó thực hiện nếu như mọi người không làm việc trên một nền tảng số dùng chung.