Phó Thủ tướng chỉ đạo phương án xây dựng đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam

VietTimes -- Do dự án có thủ tục đầu tư kéo dài, nhu cầu vốn lớn, việc Nhà nước đầu tư hạ tầng đường sắt gây áp lực nợ công, Phó Thủ tướng yêu cầu phải nghiên cứu thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học và đồng bộ  Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, có tính toán phân kỳ đầu tư phù hợp.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Văn phòng Chính phủ vừa thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng về Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam.

Trong đó, Phó Thủ tướng yêu cầu các đơn vị xác định định hướng xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách huy động vốn, chương trình nội địa hóa phát triển công nghiệp đường sắt Việt Nam, có kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ đường sắt tốc độ cao, làm cơ sở báo cáo Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương và Quốc hội quyết định.

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải khẩn trương nghiên cứu bổ sung quy định về cấp kỹ thuật đường sắt tốc độ cao vào Tiêu chuẩn ngành và Tiêu chuẩn quốc gia về cấp kỹ thuật đường sắt.

Khi dự án được Quốc hội thông qua, cần chuẩn bị kỹ về thiết kế kỹ thuật và nguồn vốn để năm 2022-2030 thực hiện xong các dự án ưu tiên đoạn Hà Nội-Vinh và Thành phố Hồ Chí Minh-Nha Trang.

Bộ Giao thông vận tải làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để bố trí vốn ngân sách cho công tác chuẩn bị đầu tư dự án đồng thời, chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất với JICA tiếp tục hỗ trợ hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án; lựa chọn tư vấn nước ngoài thẩm tra dự án trước khi trình Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng thẩm định Nhà nước.

Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo chủ động nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách huy động vốn; các đề án về phát triển các lĩnh vực liên quan, bao gồm cả đào tạo nguồn nhân lực… phục vụ phát triển đường sắt tốc độ cao theo Chiến lược phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050.

Đường sắt Việt Nam có lịch sử phát triển 135 năm. Đến nay, mạng đường sắt quốc gia có tổng chiều dài 3.134km, trong đó 2.531km chính tuyến, 612km đường nhánh và đường ga.

Do đã xây dựng từ lâu, lại không được nâng cấp, mở rộng theo đúng yêu cầu phát triển nên đường sắt Việt Nam hiện vẫn hoàn toàn là đường đơn, khổ đường hẹp 1.000mm và ngày càng xuống cấp. Tiêu chuẩn kỹ thuật kết cấu hạ tầng đường sắt thấp, lạc hậu; đường sắt giao cắt bằng với đường bộ và đường dân sinh có mật độ cao là những nguyên nhân chủ yếu hạn chế tốc độ chạy tàu, đe dọa an toàn giao thông đường sắt.

Do điều kiện địa hình Việt Nam có bề ngang hẹp, trải dài với hai trung tâm kinh tế lớn là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tập trung ở hai đầu đất nước nên việc phát triển giao thông kết nối hai khu vực này và nối liền các thành phố, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch dọc tuyến là rất cần thiết.