Xung đột đẫm máu, hai bên sử dụng cả xe tăng, đại bác
Trong trận này, phía Trung Quốc đã huy động sử dụng lực lượng tinh nhuệ lựa chọn từ 3 quân đoàn và 1 đại đội trinh sát trực thuộc quân đoàn (đều là các đại đội tăng cường quân số trên 200 người). Đêm 1/3, lính Trung Quốc dầm mình trong giá rét dưới nhiệt độ âm 30 độ bí mật lên đảo mai phục. Sáng ngày hôm sau (2/3), một phân đội “nhử mồi” do Trạm trưởng biên phòng Tôn Ngọc Quốc lên đảo tuần tra; phía Liên Xô lập tức cho quân lên đảo xua đuổi. Hơn 70 binh sĩ Liên Xô “mắc câu” lên đảo bị lính Trung Quốc đưa vào trận địa phục kích của họ. Bị đánh bất ngờ, phía Liên Xô triển khai chống trả nhưng ở thế bị động nên bị thiệt hại nặng. Sau hơn một giờ kịch chiến, toán lính Liên Xô bị tiêu diệt hầu như toàn bộ: 38 người bị giết (Liên Xô công bố bị chết 31 người), 22 người bị thương, 2 xe quân sự bị phá hủy, 1 xe bị hỏng; phía Trung Quốc chết 17 người, bị thương 35.
Pháo binh Liên Xô bắn sang phía Trung Quốc trong trận đảo Trân Bảo
|
Sau mấy ngày im ắng, các ngày 15 và 17/3, quân đội hai bên tiếp tục xung đột ác liệt. Phía Liên Xô sử dụng xe tăng, thiết giáp, máy bay và thứ “vũ khí bí mật” khi đó là pháo phản lực 40 nòng BM-21 “Grad”; phía Trung Quốc sử dụng pháo chống tăng, DKZ, B40, B41 và pháo mặt đất đặt sâu trong nội địa Trung Quốc. Lần đầu tiên, Liên Xô đã sử dụng 1 tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 "Grad" 40 nòng tập kích hỏa lực kéo dài 10 phút vào sâu lãnh thổ Trung Quốc đến 20 km. (theo một thông tin khác, vùng tập kích là khu vực có diện tích 10km chiều rộng và 7 km chiều sâu trên lãnh thổ Trung Quốc). Kết quả của đợt tập kích là toàn bộ lực lượng thê đội dự bị, kho tàng, trang thiết bị quân sự, các trạm cung cấp đạn và cơ sở vật chất cho tiền duyên cùng với binh lực của PLA bị tổn thất nặng nề, không có khả năng phục hồi.
Trong trận này, hai bên đều đổ lỗi cho nhau cố tình khiêu khích, nổ súng trước. Ngày 15/3, Liên Xô cho một tổ trinh sát 6 người do 1 sĩ quan chỉ huy tiến hành quan sát khu vực phía Nam đảo. Đến khoảng 10h, tổ trinh sát báo cáo có lực lượng đối phương đi trên mặt sông đóng băng vượt qua biên giới. Họ tính toán lực lượng Trung Quốc có khoảng 1 trung đoàn bộ binh, có pháo binh cơ giới, súng cối và 2 xe tăng yểm trợ.
Lực lượng chủ lực Liên Xô được đưa tới, triển khai chiến đấu sau 30 phút. Theo lời Đại tá Nicolas Popov, người trực tiếp tham gia trận này của phía Liên Xô kể lại, trận đánh diễn ra suốt 9 giờ, hai bên giành đi giật lại hòn đảo đến 8 lần. Khác với trận ngày 2/3 chỉ có lực lượng biên phòng tham gia, lần này khi Trung Quốc sử dụng lực lượng quân đội chính quy, phía Liên Xô cũng sử dụng 1 trung đoàn bộ binh cơ giới với hỏa lực phối thuộc mạnh, cuối cùng họ đã đuổi được quân Trung Quốc khỏi hòn đảo và cho gài mìn dày đặc trước khi rút lực lượng khỏi đảo.
Pháo binh Trung Quốc trong vụ xung đột đẫm máu trên đảo Trân Bảo
|
Trong trận đánh ác liệt này, theo số liệu phía Trung Quốc công bố thì: Liên Xô chết hơn 60 người (có 1 Đại tá, 1 Trung tá), bị thương hơn 80, 14 xe quân sự bị phá hủy; phía Trung Quốc nói họ chết 12, bị thương 27 người, nhưng thực tế có lẽ cao hơn nhiều. Đáng chú ý, 1 xe tăng T-62 được coi là hiện đại nhất của Liên Xô thời đó bị bắn hỏng nằm lại đảo. Từ ngày 17/3 đến 1/4, hai bên đã diễn ra cuộc chiến ác liệt nhằm chiếm và giữ chiếc xe tăng này, có thêm một số người nữa bị chết. Phía Liên Xô không muốn bí mật quân sự của loại xe tăng hiện đại này rơi vào tay Trung Quốc nên đã cử tổ bộc phá định phá hủy nó nhưng bị phía Trung Quốc đẩy lui. Cuối cùng, Liên Xô đã dùng hỏa lực pháo binh bắn thủng lớp băng để chiếc T-62 chìm xuống lòng sông.
Đến ngày 27/4, phía Trung Quốc nhân đêm tối cho thợ lặn hải quân bí mật xuống sông móc cáp, trục vớt thành công chiếc xe tăng kéo về Nhà máy đại tu xe tăng 6409 ở Phủ Thuận tiến hành sửa chữa rồi đưa về Thẩm Dương; đến tháng 6/1969 thì đưa về Bắc Kinh trưng bày trong Bảo tàng quân sự Trung Quốc. Từ nguyên mẫu chiếc xe tăng này, Trung Quốc đã mô phỏng chế tạo ra phiên bản xe tăng chủ lực của Trung Quốc. Trong cuộc chiến giành giật chiếc xe tăng này, Trung Quốc thương vong thêm 42 người bởi hỏa lực pháo binh của Liên Xô.
Nghĩa địa mai táng lính Trung Quốc tử trận trong vụ xung đột đảo Trân Bảo
|
Kết thúc đợt xung đột, thực tế là một cuộc chiến tranh thực sự, hai bên đều sử dụng quân chính quy và vũ khí, khí tài hiện đại này, Trung Quốc nói họ đã bắn chết và bị thương 230 lính Liên Xô (Liên Xô công bố họ thương vong 152 người) phá hủy 19 xe tăng và thiết giáp. Trung Quốc chỉ thừa nhận họ thương vong 92 người, trong khi phía Liên Xô cho rằng PLA tử thương gần 1000 binh sĩ, trong đó riêng ngày 15/3 phía Trung Quốc bị chết 600 người.
Sau đó hai bên đều tập kết số lượng lớn quân đội ở gần bờ sông, phía Trung Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo. Từ tháng 8/1969, Trung Quốc cho người lên đảo xây dựng công sự kiên cố và thường xuyên cho 1 tổ chốt giữ.
Phía Liên Xô tổ chức tang lễ cho các quân nhân tử trận trong vụ xung đột
|
Hai bên đứng bên bờ vực chiến tranh hạt nhân
Trong cuộc xung đột ngắn ngày ở đảo Trân Bảo lần này, quân đội Liên Xô đã chịu thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Ban lãnh đạo Liên Xô rất kinh ngạc và phản ứng quyết liệt. Đầu tiên, họ cướp thời gian đưa công hàm phản kháng trước; thứ hai, tổ chức họp báo tố cáo Trung Quốc; thứ ba, phát động các cuộc biểu tình thị uy; thứ tư, tố cáo với các nước phương Tây; thứ năm, chuẩn bị áp dụng “hành động tập thể”; thứ sáu, tiến hành đe dọa hạt nhân; thứ bẩy, đưa ra ý tưởng về thể chế an ninh chung châu Á.
Phía Trung Quốc cũng đưa ra các phản ứng khác thường: thứ nhất, tổ chức biểu tình quy mô lớn; thứ hai, ông Mao Trạch Đông phát biểu đề cấp đến sự kiện này tại Hội nghị gặp mặt các nhân vật lãnh đạo Cách mạng văn hóa; thứ ba, dấy lên cao trào chuẩn bị chiến tranh với Liên Xô trên phạm vi cả nước; thứ tư, không đếm xỉa đến yêu cầu đàm phán của phía Liên Xô.
Chiếc T-62 của Liên Xô được Trung Quốc kéo về làm mẫu để làm nhái loại tăng chủ lực và trưng bày tại Bảo tàng quân sự ở Bắc Kinh
|
Do Trung Quốc trong suốt thời gian dài không đáp lại yêu cầu ngồi lại đàm phán, nên Liên Xô phải áp dụng biện pháp tiếp theo. Một mặt Liên Xô tuyên truyền trên báo chí chuẩn bị tiến công hạt nhân vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc; mặt khác, họ ráo riết chuẩn bị tiến hành trả thù về quân sự.
Theo tố cáo của Trung Quốc, ngày 13/8/1969, phía Liên Xô sử dụng hàng trăm quân được xe tăng, thiết giáp yểm trợ vượt biên giới sang phục kích lực lượng biên phòng Trung Quốc ở khu vực Tilekati, huyện Dục Dân, Tân Cương, diệt gọn đội tuần tra Trung Quốc gồm 38 người. Những người chủ trương cứng rắn với Trung Quốc trong quân đội Liên Xô chủ động bố trí các tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân ở khu vực Viễn Đông nhằm vào các mục tiêu quan trọng về quân sự và chính trị của Trung Quốc, đe dọa “đánh đòn hạt nhân để phẫu thuật ngoại khoa”.
Cuộc gặp mặt lịch sử giữa Thủ tướng Liên Xô Alexei Nikolayevich Kosygin và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại sân bay Bắc Kinh ngày 11/9/1969
|
Để tranh thủ Mỹ giữ lập trường trung lập, Liên Xô thông báo với Mỹ ý đồ tiến công hạt nhân Trung Quốc. Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích toàn cầu của Mỹ và trước nguy cơ bùng phát nguy cơ chiến tranh hạt nhân, Mỹ tuyên bố không thể khoanh tay ngồi nhìn. Mỹ cố ý ban hành chỉ lệnh bằng loại mật mã đã bị Liên Xô phá giải: nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân Trung-Xô, Mỹ sẽ tiến công hạt nhân vào hơn 130 mục tiêu chiến lược của Liên Xô. Mỹ còn cố ý tiết lộ ý đồ chiến tranh hạt nhân của Liên Xô cho báo chí.
Lãnh đạo Trung Quốc khi đó mới ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, vội lấy chuẩn bị chiến tranh làm sự bố trí chiến lược mới. Các nhà lãnh đạo quan trọng của Trung Quốc đều được sơ tán, các hồ sơ tài liệu quan trọng được đưa về cất giấu ở vùng Tây Nam. Quân đội sơ tán 94 vạn quân, không quân sơ tán hơn 4.000 máy bay, hải quân sơ tán hơn 6.000 tàu chiến.
Hàng trăm triệu dân ở các thành phố bị cuốn vào trạng thái hành động chuẩn bị chiến tranh: các thành phố lớn khẩn cấp tổ chức các cuộc diễn tập phòng không; các hầm ngầm trú ẩn, công sự được xây dựng khắp nơi; tất cả các trường đại học bị di chuyển ra ngoài thành phố hoặc đến các nơi an toàn; kinh tế quốc dân chuyển sang trạng thái thời chiến; nhiều nhà máy xí nghiệp chuyển sang sản xuất vũ khí, thiết bị quốc phòng; nhiều nhà máy phải sơ tán đến các vùng núi.
Liên Xô bố trí hàng triệu quân sát biên giới Trung Quốc, đưa 20 vạn quân sang đồn trú ở Mông Cổ; hàng trăm máy bay ném bom có thể mang bom hạt nhân được triển khai tới khu vực Viễn Đông. Mấy năm đầu thập niên 1970, cả nước Trung Quốc sống trong không khí căng thẳng trước chiến tranh.
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lý Triệu Tinh và Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov ký Thỏa ước hoàn thành chuyển giao các đảo theo Hiệp định đảo Hắc Hạt Tử dưới sự chứng kiến của Tổng thống Vladimir Putin và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, ngày 2/6/2005
|
Trong mấy cuộc chiến tranh với bên ngoài của Trung Quốc kể từ sau 1949, cuộc chiến Trung - Xô ở đảo Trân Bảo tuy có quy mô nhỏ nhất, nhưng nó lại suýt đẩy cả thế giới đến bên bờ cuộc chiến tranh hạt nhân, ảnh hưởng và hậu quả của nó vượt xa quy mô các vụ việc đã xảy ra trước đó. Việc hai nước Trung, Xô tuốt gươm khỏi vỏ, cung đã giương tên khiến Mao Trạch Đông cuối cùng ý thức được rằng Trung Quốc không thể cùng lúc đối đầu và gây chiến với cả hai cường quốc Mỹ, Xô được; ông ta nhanh chóng nắm lấy “cành ô-liu” mà Washington chìa ra. Quan hệ Trung - Mỹ bắt đầu hòa dịu. Có thể nói chuyến thăm Bắc Kinh của Nixon bắt đầu từ khói súng đảo Trân Bảo. Việc Trung, Mỹ tiếp cận nhau đã phá vỡ cục diện hai cực Mỹ, Xô thống trị thế giới.
Bản đồ khu vực biên giới đoạn phía Đông sau khi phân định: các đảo nổi lớn trên sông Usuri đều thuộc về phía Trung Quốc (đảo Trân Bảo ở giữa)
|
Hòa giải, xuống thang và giải quyết triệt để vấn đề biên giới
Ngày 11/9/1969, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Alexei Nikolayevich Kosygin sau khi tới Hà Nội tham dự lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường về nước đã ghé qua Bắc Kinh, gặp gỡ Thủ tướng Chu Ân Lai và tiến hành cuộc hội đàm lịch sử ngay tại sân bay Bắc Kinh. Hai bên đạt được Thỏa thuận 4 điểm: duy trì hiện trạng biên giới; ngăn ngừa xung đột vũ trang; lực lượng vũ trang hai bên ở sát biên giới rút về phía sau, tránh tiếp xúc…Sau đó tình hình hòa dịu dần. Năm 1990, vấn đề quy thuộc đảo Trân Bảo được giải quyết; năm 1991, Nga thừa nhận đảo Trân Bảo thuộc về Trung Quốc.
Năm 2004, Trung Quốc và Nga ký kết Hiệp định đảo Hắc Hạt Tử (đảo Bolshoi Ussuriysky), tức “Hiệp ước bổ sung về đoạn phía Đông đường biên giới Trung - Nga”, Nga trả cho Trung Quốc toàn bộ đảo Ngân Long (Tarabarov), một phần đảo Hắc Hạt Tử và bãi Abaheitu trên sông Argun (Nội Mông) mà họ đang chiếm giữ cho Trung Quốc.
Đảo Trân Bảo hiện thuộc về Trung Quốc được tỉnh Hắc Long Giang khai thác phục vụ khách du lịch
|
Tháng 4/2005, chính phủ Nga đã phê chuẩn Hiệp định này, một tháng trước đó Ủy ban thường vụ Quốc hội Trung Quốc cũng đã phê chuẩn. Việc chuyển giao các đảo hoàn thành xong vào ngày 2 tháng 6 năm 2005 khi một thỏa ước được Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lý Triệu Tinh và Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov ký dưới sự chứng kiến của Tổng thống Vladimir Putin và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Đến đây, toàn bộ đường biên giới Trung-Nga dài 4.300km được xác định xong. Tháng 10/2008, chính phủ hai nước đã tổ chức lễ khánh thành cột mốc phân định biên giới đoạn Đông giữa hai nước trên đảo Hắc Hạt Tử; vấn đề biên giới trên bộ giữa Trung Quốc và Nga đã được giải quyết.
Hiện nay đảo Trân Bảo cùng các đảo Thất Lý Tâm, Kabozi gần đó đều đã quy thuộc Trung Quốc. Trên đảo Trân Bảo hiện nay có một đơn vị biên phòng đồn trú và tỉnh Hắc Long Giang đã tôn tạo lại các địa điểm xảy ra cuộc chiến năm xưa cùng với một phòng trưng bày, biến nơi này thành một điểm thu hút khách du lịch./.