Trên thực tế, những lời tiên đoán về tương lai mà chúng ta đang sống không hề xa vời, hão huyền, từ sự gia tăng ô tô và máy bay đến sự truyền bá rộng rãi thông tin. Dĩ nhiên, những chi tiết cụ thể về cách thức hoạt động của những thiết bị này không hoàn toàn trùng khớp. Nhưng những dự đoán này sẽ chỉ cho chúng ta biết công nghệ của đã tiến triển như thế nào chỉ trong một thế kỷ - và những tiềm năng đổi mới và bước tiến trong tương lai của chúng.
1. Liên lạc trong tương lai
Vào một ngày tháng 2 năm 1917, nhà phát minh Alexander Graham Bell đã phát biểu một bài diễn văn mang tính chất tiên tri tại trường McKinley Manual Training.
"Bây giờ, việc nhìn lại những thay đổi khác nhau đã xảy ra và theo dõi sự tiến hóa của hiện tại từ quá khứ là điều rất thú vị", Bell cho biết, sau khi nhớ lại sự biến đổi khó tin được thực hiện từ điện và ô tô. "Bằng cách dự đoán những tiến bộ này trong tương lai, bạn có thể đoán trước tương lai, đến một mức độ nhất định, và nhận ra một số lĩnh vực hữu ích đang mở ra cho bạn”.
Năm 1876, Bell đã được cấp bằng sáng chế thiết bị được gọi là điện thoại, sử dụng dây để truyền tải âm thanh, lời nói của con người. Năm 1915, một hệ thống “điện thoại không dây” như vậy đã cho phép một người đàn ông Virginia nói chuyện với một người khác ở Paris trong khi một người đàn ông ở Honolulu cũng có thể nghe trộm điện thoại - một khoảng cách 4.900 dặm (khoảng 7.886 km), thiết lập kỷ lục về khoảng cách giao tiếp dài nhất tại thời điểm đó.
Bell cũng rất ngạc nhiên trước thành tựu này và sự thay đổi mà nó đã tạo ra, dự đoán rằng "thành tựu này chắc chắn sẽ báo trước thời điểm mọi người có thể nói chuyện nhau ở bất cứ nơi nào trên thế giới bằng điện thoại và không có dây điện”. Vào thời Bell, Hoa Kỳ đã có khoảng 11,7 triệu điện thoại; đến năm 2000, con số đó đã tăng lên gần 103 triệu.
Bell dự đoán trong tương lai, công nghệ này cho phép mọi người sát lại gần nhau hơn dù xa về khoảng cách không gian địa lý: "Chúng ta có lẽ sẽ có thể giao tiếp với nhau chỉ cần qua thiết bị cầm tay không dây”. Và điều đó đã trở thành hiện thực.
2. Giao thông trong Tương lai
Mọi người cách đây một thế kỷ đều bị ám ảnh bởi chuyến đi của tương lai. Đến năm 1914, Ford Motor Company đã phát triển dây chuyền lắp ráp đầu tiên, cho phép công ty sản xuất 300.000 chiếc xe trong một năm. Với quá trình chuyển đổi bắt đầu từ biến đổi xã hội, con người bắt đầu tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người có thể sở hữu chiếc ô tô để di chuyển đến bất kỳ nơi đâu. Vấn đề này không hề viển vông khi có đến 95% số hộ gia đình Mỹ sở hữu ô tô, theo một báo cáo năm 2016. Nhưng những chiếc xe hơi tưởng tượng trông hơi khác so với những chiếc xe mà chúng ta biết ngày nay.
Vào ngày 6/1/1918, theo một bài báo viết về dự đoán ô tô trong tương lai đăng trên tờ The Washington Times, "ô tô của ngày mai sẽ được xây dựng giống như một phòng vẽ di chuyển”. Nó sẽ không thấm nước và không chịu ảnh hưởng bởi thời tiết, với các mặt được làm bằng thủy tinh, và ghế mà có thể được di chuyển bất cứ nơi nào trong xe. Nó sẽ được trang trí với hệ thống tay lái trợ lực, phanh, hệ thống sưởi ấm, và một bảng điều khiển nhỏ để điều hướng. Một cần gạt tay sẽ thay thế cho tay lái. Các thiết kế khác tưởng tượng rằng xe ô tô sẽ chỉ dùng ba bánh xe, hoặc trên các quả cầu chứa đầy không khí để giảm xóc.
Con người thập niên 1900 đã bị mê hoặc bởi ý tưởng rằng chuyến đi hàng ngày sẽ không bị giới hạn trên mặt đất. Hàng loạt các bưu thiếp được sản xuất từ năm 1899 đến năm 1910 bởi nghệ sĩ người Pháp Jean-Marc Côté và cộng tác viên, những người tự tin rằng vào năm 2000, con người sẽ định cư trên cả bầu trời và biển.
Du lịch bằng máy bay là điều quan trọng nhất: Anh em nhà Wright đã thực hiện chuyến bay thành công đầu tiên của mình vào năm 1903, thúc đẩy các nhà phát minh và kỹ sư khác thử nghiệm vô số các thiết kế máy bay trước Thế chiến I. Như vậy không có gì ngạc nhiên khi Côté tưởng tượng ra rằng, đến năm 2000, gần như mọi hình thức vận chuyển sẽ được thông qua hàng không. Dịch vụ taxi bay trên không, các tàu chiến lớn nổi, và phương tiện giao thông công cộng trên không đều xuất hiện trong thế giới ngày nay.
Phương tiện bay cá nhân là một đặc trưng nổi bật của thế kỷ 21 và được hình dung từ thế kỉ 19 và 20 - đặc biệt là khái niệm rằng ô tô bay cá nhân sẽ trở thành phổ biến. Những người Victoria thời xa xưa, như nghệ sĩ Albert Robida năm 1882, cho rằng bầu trời sẽ dày đặc với những chiếc xe bay vào năm 2018.
Trong tạp chí Science and Invention năm 1923, nhà văn khoa học viễn tưởng Hugo Gernsback mô tả tầm nhìn của ông về những chiếc xe bay này, mà ông gọi là "helicar", một giải pháp cho giao thông ô tô với vấn đề tắc đường tại New York:
“Giải pháp thực tế duy nhất là kết hợp ô tô với máy bay và điều này chắc chắn sẽ xảy ra trong vài thập kỷ tới. Ô tô trực thăng sẽ không chiếm nhiều chỗ hơn ô tô chở khách cỡ lớn hiện nay, cũng không nặng lắm so với chiếc xe hiện nay, nhưng thay vì lăn xuống đại lộ, nó sẽ bay thẳng lên không trung và đi theo đường giao thông hàng không, sau đó xuống bất cứ nơi nào bạn muốn”.
Chúng ta có thể chưa có một máy bay đậu trong gara xe mỗi nhà, nhưng Uber, NASA, công ty quốc phòng Nga Kalashnikov, Toyota và rất nhiều công ty nhỏ hơn đang phát triển ô tô bay cá nhân, vì vậy đây có thể không còn là điều xa xôi.
3. Công nghệ trong tương lai
Năm 1900, một bài báo có tựa đề “ Những gì có thể xảy ra trong hàng trăm năm tới” trên tờ The Home Journal Ladies, nhà văn Watkins tưởng tượng ra một thế giới trong đó công nghệ không chỉ nằm trong tay ngành công nghiệp hay quân đội - thay vào đó, nó sẽ được chuyển hướng đến mục đích giải trí và tiện lợi cho mọi người .
Dù không đưa ra dự đoán về các mô hình của TV, Watkins dự đoán rằng công nghệ một ngày nào đó sẽ mang các buổi hòa nhạc và opera đến từng hộ gia đình. Ông cũng dự đoán rằng hình ảnh màu sẽ một ngày nào đó được truyền nhanh chóng trên khắp thế giới, và rằng“…các bức ảnh chụp nhanh những sự kiện nổi bật nhất sẽ được xuất bản trên báo chí một giờ sau đó”.
Watkins tưởng tượng rằng công nghệ sẽ biến đổi nhà cửa và chế độ ăn. Mặc dù tủ lạnh làm mát bằng máy đã không được phát minh cho đến năm 1925, và chỉ phổ biến đến năm 1940, Watkins đã dự đoán chính xác rằng "tủ lạnh sẽ giữ cho thực phẩm tươi ngon trong khoảng thời gian dài" và sẽ cung cấp trái cây và rau quả từ khắp nơi trên thế giới dù đã hết mùa. Ông thậm chí còn nhắc đến sự phát triển của dịch vụ chuyển phát đồ ăn nhanh, dự đoán "các món ăn được nấu sẵn ... phục vụ đến tận nhà riêng". Ông tin rằng những bữa ăn này sẽ thay thế cho cách thức nấu ăn tại nhà.
Watkins cũng nghĩ rằng chúng ta sẽ loại bỏ các chữ cái C, X hoặc Q trong bảng chữ cái hàng ngày, vì chúng "không cần thiết". Con người sẽ trở thành siêu loài, với sự giáo dục thể chất bắt đầu từ rất sớm. Và cho đến khi người đàn ông hay phụ nữ không thể đi mười dặm sẽ bị coi là một kẻ yếu đuối”. Thật không may, vấn đề béo phì toàn cầu của cho thấy thực tế lại hoàn toàn trái ngược lại.
Mặc dù vậy, những dự đoán này là khá đúng đắn: khi việc sử dụng điện và công nghệ như xe ô tô và điện thoại trở nên phổ biến, Watkins có thể hình dung một thời đại trong đó công nghệ được tích hợp hoàn toàn vào cuộc sống của chúng ta. Con người ở thế kỉ 1900 tin rằng robot và tự động hóa là điều thiết yếu đối với những người thế kỷ 21, phục vụ như tài xế, dọn dẹp nhà cửa, giặt quần áo…
Alexander Graham Bell cũng tiên đoán xu hướng này, và ông nghĩ rằng nó báo trước một điều gì đó đặc biệt hứa hẹn cho những sinh viên tốt nghiệp trường McKinley mà ông đề cập đến vào năm 1918. Nhìn thấy trước sự gia tăng của ngành công nghiệp tập trung vào công nghệ và nhu cầu về các nhà khoa học và kỹ sư, ông nói với họ: " người theo khoa học và các chuyên gia kỹ thuật chắc chắn sẽ chiếm vị trí nổi bật và danh dự ở tất cả các nước trên thế giới. Tương lai của các bạn đã được đảm bảo”.
4. Năng lượng sạch trong tương lai
Có lẽ những dự đoán đáng ngạc nhiên nhất từ thế kỷ qua liên quan đến nhiên liệu hóa thạch và môi trường. Đúng vậy, ngày nay một số người vẫn chống lại việc chuyển đổi nhiên liệu hóa thạch và bỏ qua sự đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu. Nhưng những con người có tầm nhìn xa trông rộng từ thế kỉ 20 đã lường trước được rằng loài người sẽ phải từ bỏ thói quen sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Ngay từ năm 1896, nhà khoa học Svante Arrhenius tính rằng nếu tăng gấp đôi nồng độ carbon dioxide trong bầu khí quyển sẽ làm tăng nhiệt độ Trái đất từ 8 đến 9 độ C. Các nhà khoa học nói chung sẽ không ủng hộ ý tưởng của Arrhenius, hoặc thừa nhận rằng việc đốt nhiên liệu các-bon có tác động bất lợi lên hành tinh chúng ta, ít nhất là một thế kỷ. Tuy nhiên, ngay cả trước khi các nhà khoa học hiểu được những ảnh hưởng bất lợi đến khí hậu của nhiên liệu hóa thạch, các nhà tương lai học dự đoán rằng chúng ta sẽ phải bỏ qua việc sử dụng than và dầu. Vào tháng 2/1917, Graham Bell phát biểu: “Chúng ta có thể lấy than ra khỏi mỏ, nhưng chúng ta không thể đặt nó trở lại. Chúng ta có thể rút ra dầu từ các hồ chứa dưới lòng đất, nhưng chúng ta không thể nào đổ chúng lại. Chúng ta đang hoang phí nhiên liệu. Liên quan đến than đá và dầu mỏ, mức tiêu thụ hàng năm trên thế giới đã trở nên quá lớn đến nỗi chúng ta hiện dần cạn kiệt chúng. Chúng ta sẽ làm gì khi không có than hoặc dầu?”
Ông cho rằng thủy năng, tại thời điểm đó, khá hạn chế, và ngụ ý rằng một ngày nào đó chúng có thể tạo ra năng lượng từ thủy triều, sóng, hoặc "việc sử dụng các tia mặt trời trực tiếp như một nguồn năng lượng".
Bell không phải là người duy nhất biết chắc rằng chúng ta sẽ phải tìm ra một nguồn năng lượng mới trong thế kỷ tiếp theo. Vào năm 1917, khi tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng than ở Mỹ khiến người ta phải lên tiếng kêu gọi bảo tồn tài nguyên.
Theo Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng (EIA), Mỹ vẫn sử dụng 17% lượng năng lượng từ than, 28% là từ dầu mỏ, và 33% từ khí tự nhiên; con người chỉ có 12% điện năng đến từ các nguồn năng lượng tái tạo mà nhà văn Chicago News đã dự đóa chắc chắn là con người sẽ tìm ra cách "để đưa năng lượng mặt trời vào kho và đưa nó đến hộ gia đình thông qua đường ống". Trên toàn cầu, than chiếm khoảng 27% sản lượng năng lượng của thế giới, và năng lượng tái tạo khoảng 24%.
Tin tốt là sự phân bố này đang thay đổi vì năng lượng tái tạo trở nên rẻ hơn nhiên liệu hóa thạch, dẫn chúng ta đến gần hơn với tương lai tươi sáng mà những tư tưởng thế kỷ 20 đã dự đoán.