Vườn ươm (hay trung tâm ươm tạo) đều là tổ chức ươm tạo doanh nghiệp (DN), thực hiện chức năng hỗ trợ DN hoàn thiện và phát triển. Ở nước ta, khái niệm vườn ươm còn khá mới mẻ dù cũng có một số mô hình vườn ươm hoặc một số tổ chức có chức năng như vườn ươm đã được xây dựng và phát triển (vườn ươm DN công nghệ cao Hòa Lạc - Khu công nghệ cao Hòa Lạc, vườn ươm DN công nghệ cao TPHCM, vườn ươm DN phần mềm Quang Trung…). Gần đây, đã xuất hiện khá nhiều vườn ươm ở các địa phương như vườn ươm công nghệ Việt Nam-Hàn Quốc tại Cần Thơ, vườn ươm DN Đà Nẵng, Sóc Trăng…
Hiện tại trên địa bàn TPHCM có 24 cơ sở ươm tạo doanh nghiệp (DN), trong đó 10 cơ sở thuộc sở hữu nhà nước, còn lại là các khu ươm tạo tư nhân. Đối tác của tất cả các cơ sở ươm tạo này gần giống nhau với sự tham gia từ các viện, trường, hiệp hội DN, các công ty tư vấn, quỹ đầu tư mạo hiểm, các chuyên gia trong và ngoài nước … Tuy nhiên, nếu như 100% các cơ sở ươm tạo nhà nước hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận thì 90% các cơ sở tư nhân là vì lợi nhuận.
Các cơ sở ươm tạo nhà nước thì đầu tư hỗ trợ cho DN ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau như nông nghiệp, công nghệ cao, công nghệ sinh học, lương thực thực phẩm - là những ngành nghề đòi hỏi chi phí cho máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, thời gian ươm tạo dài (3-5 năm). Còn cơ sở ươm tạo tư nhân lại chủ yếu tập trung vào thương mại điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông… với chi phí đầu tư không lớn, thời gian ươm tạo ngắn (4-6 tháng), có thể thu hồi và thoái vốn nhanh.
Vì vậy những khác biệt về hiệu quả hoạt động nếu chỉ xét yếu tố kinh tế một phần cũng từ đây mà ra.
Với những đặc thù về cơ chế và tính chất hoạt động như vậy khiến các cơ sở ươm tạo nhà nước hiện không đủ hấp dẫn các nhà đầu tư, dù rằng những vườn ươm này cũng có nhận được tài trợ từ các định chế quốc tế và sự quan tâm từ các bộ ngành. Tuy nhiên tỷ lệ startups được ươm tạo ở đây gọi vốn thành công là khá hạn chế.
Theo các chuyên gia, có thể thấy còn 3 yếu tố quan trọng khiến mô hình vườn ươm nhà nước ngày càng chật vật. Đó là vốn đầu tư ban đầu – hàng năm đều eo hẹp; nguồn nhân lực quản trị vườn ươm chủ yếu là các nhà chuyên môn có tư duy thị trường hạn chế; chính sách “chật chội” với hoạt động đầu tư mạo hiểm, rối rắm thủ tục xin giấy phép lao động cho chuyên gia nước ngoài, thiếu quy định về đăng ký đầu tư khi nhà đầu tư ngoại muốn rót vốn cho startup dưới hình thức mua cổ phần…
Thật vậy, PGS. TS Mai Thanh Phong, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa TPHCM cho rằng các vườn ươm nhà nước thiếu nhân lực có kinh nghiệm về DN để cung cấp dịch vụ phù hợp, “công tác quản lý cũng chủ yếu ở khía cạnh hành chính, ít gắn bó với khách hàng. Công tác quản trị vườn ươm ở trường Đại học bị ảnh hưởng tiêu cực do vẫn phải kiêm nhiệm là giảng viên”.
Còn TS Nguyễn Hải An, Giám đốc Trung tâm ươm tạo DN nông nghiệp công nghệ cao TPHCM thì nhận định phạm vi khung pháp lý hỗ trợ cho các cơ sở ươm tạo mới chi phối trong phạm vi hẹp, chưa đủ và chủ yếu được lồng ghép trong các văn bản pháp luật khác nên hoạt động của các vườn ươm còn rất lúng túng, nay thì theo quy định này, mai lại theo văn bản hướng dẫn kia. Trong khi các cơ sở ươm tạo tư nhân hoạt động theo mô hình doanh nghiệp để có sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm thì các cơ sở ươm tạo nhà nước phần nhiều là đơn vị phụ thuộc của một sở ngành, viện trường nào đó.
Bên cạnh đó, quy trình đánh giá chất lượng hoạt động của cơ sở ươm tạo bằng tiêu chí tài chính chưa có hoặc chưa thống nhất, mỗi nơi mỗi phách. Đó là chưa kể những vướng mắc liên quan đến sở hữu trí tuệ khi cơ sở ươm tạo muốn góp vốn cổ phần trong startup, “không biết ký giao kết với startup kiểu gì, lỡ ký sai thanh tra tìm ra thì có vấn đề ngay!”, ông An nói thêm.