Sáng 27/3, Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang cho biết đang điều trị 8 trường hợp bị bỏng nước sôi, chủ yếu là trẻ dưới 5 tuổi.
Bệnh nhân nhập viện gần nhất là bé Chẩu Khải P. (3 tuổi, ở Lâm Bình, Tuyên Quang), phải cấp cứu vì bị ngã vào chậu nước sôi gây bỏng nặng. Vết bỏng lan rộng ở lưng, cẳng hai tay, đùi và hai bên mông, diện tích bỏng chiếm 30% cơ thể. Hiện bé P. vẫn đang được điều trị tại Bệnh viện.
Theo bác sĩ Quàng Văn Hải, Phó Trưởng khoa Chấn thương chỉnh hình (CTCH), từ đầu năm đến nay, Bệnh viện đã tiếp nhận 45 bệnh nhân bị bỏng, trong đó có 28 ca phải nằm điều trị nội trú.
Bác sĩ Hải cho biết, tổn thương bỏng thường gặp ở trẻ chủ yếu do nước sôi với những vết thương đa dạng và ở nhiều vị trí như chân, lưng, cánh, cẳng tay, đặc biệt là bàn tay. Vết bỏng ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hàng ngày của trẻ, phải điều trị dài ngày, tốn kém rất nhiều. Sau khi bệnh nhân được chữa trị khỏi, vết bỏng sẽ để lại nhiều di chứng nặng nề, các vị trí bỏng ở vùng mặt hoặc bộ phận sinh dục làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chức năng sinh sản sau này của trẻ.
Vì thế, bác sĩ Hải khuyến cáo, phụ huynh cần giám sát trẻ thật chặt chẽ, tránh để trẻ tới gần phích nước sôi, cốc nước nóng, thức ăn mới nấu, bàn là đang nóng, bật lửa dễ gây bỏng. Phụ huynh không để trẻ nhỏ tự tắm vòi nước nóng lạnh; nếu tắm chậu, phụ huynh cần đổ nước lạnh vào trước và hòa nước nóng sau, luôn kiểm tra nhiệt độ nước trước khi tắm. Khi bê nước nóng, thức ăn mới nấu, bố mẹ chú ý tránh xa trẻ để không va đụng gây đổ, bỏng; kiểm tra nhiệt độ của thức ăn, đồ uống trước khi cho trẻ ăn, uống; không nên ăn thức ăn, uống nước nóng khi bế trẻ nhỏ.
Khi trẻ bị bỏng, phụ huynh nên làm gì?
Trẻ nhỏ dễ bị bỏng vì hiếu động và tính tò mò
|
Theo bác sĩ Quàng Văn Hải, khi trẻ bị bỏng nước sôi, phụ huynh cần nhanh chóng đưa vết bỏng vào dưới vòi nước lạnh hoặc dội nước, đặt vết thương vào chậu nước mát, sạch để giảm nhiệt độ bỏng, giảm đau, giảm phù nề, viêm nhiễm và hạn chế tổn thương lan rộng.
Phụ huynh chú ý không dùng nước đá lạnh để làm mát, vì có thể gây tổn thương da; không áp dụng các biện pháp truyền miệng như phun rượu, bôi kem đánh răng, lòng trắng trứng lên vết bỏng, không tự ý sử dụng các thảo dược để sơ cứu bởi có thể khiến vết bỏng lan rộng hơn.
Sau đó bảo vệ vết thương để tránh tổn thương và nhiễm trùng thêm bằng cách dùng bằng gạc sạch hoặc vải mỏng băng nhẹ nhàng che phủ vết bỏng, không băng quá chặt làm tổn thương vết bỏng nặng thêm. Phụ huynh lưu ý không tiếp xúc trực tiếp với vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn.
Trong trường hợp trẻ hoảng loạn, cha mẹ nên động viên, trấn an trẻ. Nếu trẻ đau nhiều thì dùng thuốc giảm đau.
Khi trẻ bị bỏng, nếu vùng bỏng lớn thì không nên cởi bỏ quần áo khiến trẻ bị lột da vùng bỏng. Thay vào đó, bố mẹ nên nhanh chóng dùng kéo cắt áo quần ra khỏi vết bỏng, tránh việc áo quần dính chặt vào vết bỏng khiến vết bỏng bị đau rát, dễ viêm nhiễm. Nhẹ nhàng tháo bỏ các tư trang cá nhân, vòng lắc hoặc đồng hồ, giày dép … trước khi vết bỏng bị sưng nề.
Sau sơ cứu ban đầu, trẻ cần được đưa đến các cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu và điều trị kịp thời, hạn chế tối đa các biến chứng.