Ông Phan Văn Khải, sinh ngày 25/12/1933, tại xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú tại số nhà 24 Tú Xương, Phường 7, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; Ông tham gia cách mạng năm 1947; ngày 15/7/1959 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1947, ông tham gia Đội thiếu nhi xã và làm cán bộ thiếu nhi xã Tân An Hội, huyện Hóc Môn. Năm 1948 - 1949, làm Ủy viên Ban Chấp hành thiếu nhi huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định.
Năm 1950 đến năm 1951, ông làm công tác văn thư Tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Gia Định.
Năm 1952 đến năm 1954, ông làm công tác văn phòng của Mặt trận Liên Việt tỉnh Gia Định Ninh, Văn phòng Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến tỉnh Gia Định Ninh.
Tháng 10/1954, ông tập kết ra Bắc.
Năm 1955 đến năm 1957, ông làm công tác giảm tô đợt 7 ở Hà Nam, đợt 4 cải cách ruộng đất ở tỉnh Sơn Tây và đợt 5 cải cách ruộng đất ở Bắc Hưng Yên.
Tháng 8/1957 đến năm 1959, ông học văn hóa ở Trường bổ túc công nông Trung ương.
Tháng 8/1959 đến tháng 8/1960, ông học Trường Ngoại ngữ Trung ương.
Tháng 9/1960 đến tháng 6/1965, ông học Đại học Kinh tế quốc dân Mát-xcơ-va, Liên Xô.
Tháng 6/1965 đến năm 1971, ông làm cán bộ, Phó phòng, Trưởng phòng Vụ Tổng hợp, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Năm 1972 đến năm 1975, ông làm cán bộ nghiên cứu kinh tế miền Nam, năm 1973 vào chiến trường B2, năm 1974, ông ra Hà Nội làm Vụ phó Vụ Kế hoạch chi viện, Ủy ban Thống nhất
Năm 1976 đến năm 1978, ông làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1979 đến năm 1980, ông làm Thành ủy viên, Ủy viên Thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1981 đến năm 1984, ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), ông được bầu vào Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa V (năm 1984), ông được bầu vào Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1985 đến tháng 3/1989, ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), ông tiếp tục được bầu lại vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 4/1989 đến tháng 6/1991, ông làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), ông tiếp tục được bầu lại vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Ủy viên Bộ Chính trị.
Tháng 7/1991, ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; tháng 9/1992 đến tháng 8/1997 làm Phó Thủ tướng Chính phủ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), ông tiếp tục được bầu lại vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp tục được Trung ương bầu vào Ủy viên Bộ Chính trị; ông làm Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ.
Tháng 9/1997, ông làm Thủ tướng Chính phủ; làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị tháng 01/1998.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001), ông tiếp tục được bầu lại vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Ủy viên Bộ Chính trị, tiếp tục làm Thủ tướng Chính phủ đến tháng 7/2006.
Ông được nghỉ công tác, nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 01/01/2008.
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa V, VI, VII, VIII, IX; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VII, VIII, IX; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X, XI.
Do có nhiều công lao và đóng góp lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế và Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng./.