Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO

Việc Nga triển khai hệ thống tên lửa Iskander ở vùng Kaliningrad thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng với các đồng minh Đông Âu của NATO. Tại sao tổ hợp tên lửa này lại gây lên sự sợ hãi đến vậy?
Tên lửa chiến thuật iskander - M
Tên lửa chiến thuật iskander - M

Tên lửa đất đối đất cấp chiến dịch - chiến thuật 9K720 "Iskander" định danh NATO - SS-26 "Stone" được thiết kế với mục đích –yêu cầu cấp chiến dịch: bí mật triển khai và bất ngờ tiến hành các đòn tấn công tên lửa có hiệu quả cao vào các mục tiêu đặc biệt quan trọng có diện tích nhỏ và khu vực co cụm lực lượng của đối phương ở sâu trong hậu phương chiến dịch của đối phương

Tổ hợp tên lửa đất đối đất cấp chiến dịch - chiến thuật tên lửa9K720 "Iskander" SS-26 "Stone" được thiết kế với mục đích –yêu cầu cấp chiến dịch: bí mật triển khai và bất ngờ tiến hành các đòn tấn công tên lửa hiệu suất cao vào các mục tiêu đặc biệt quan trọng có diện tích nhỏ và khu vực co cụm lực lượng ở sâu trong hậu phương chiến dịch của đối phương: các đơn vị, phương tiện hỏa lực (các tổ hợp tên lửa, các trận địa pháo phản lực, các trận địa pháo binh), sân bay dã chiến, nơi tập trung các máy bay chiến đấu cấp chiến dịch, chiến thuật và máy bay trực thăng, sở chỉ huy chiến trường, các trung tâm thông tin liên lạc, điều hành tác chiến, cơ sở hạ tầng xã hội quan trọng (các công trình hạ tầng, nhà máy sản xuất, kho tàng, bến cảng…).

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 1
Phóng tên lửa Iskander -M tại trường bắn Toshke, Nga

Iskander 9K720 là kết quả của nỗ lực vì sự nghiệp chung của một tập thể các viện nghiên cứu, phòng thiết kế và các nhà máy dưới sự chỉ đạo của Trung tâm Thiết kế kỹ thuật (KBM Kolomna), được biết đến qua quá trình thiết kế, thử nghiệm và chế tạo các tổ hợp tên lửa “Totrka” "Oka".

Phương tiện mang và cũng là bệ phóng đạn được thiết kế bởi Trung tâm nghiên cứu thiết kế và thử nghiệm CKB "Titan" (Volgograd), hệ thống dẫn đường – hệ thống điều khiển, chỉ thị mục tiêu được phát triển bởi Viện nghiên cứu Tự động hóa - Thủy lực (Moscow).

Tổ hợp tên lửa chiến dịch - chiến thuật (PTRC), "Iskander" đã được chế tạo trong điều kiện Hiệp ước loại trừ tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tầm trung và tầm gần vào năm 1987 (INF) và không sử dụng vũ khí hạt nhân chiến trường đối với hai bên tham chiến.

Trong khuôn khổ các điều ước này, Liên bang Xô viết đã phát triển các tổ hợp tên lửa chiến trường với các yêu cầu cơ bản mới, chẳng hạn như: không sử dụng hạt nhân và chỉ sử dụng các đầu đạn có chất nổ thông thường, yêu cầu độ chính xác cao của tên lửa. Có thể kiểm soát ở tất cả (phần lớn) các giai đoạn trong quỹ đạo của tên lửa, khả năng có thể lắp các đầu đạn theo tính chất yêu cầu nhiệm vụ để tiêu diệt mục tiêu có hiệu quả cao nhất (đạn nổ phá, đạn casset, đầu đạn nhiệt áp hoặc đầu đạn xuyên bê tông), quy trình tự động hóa trao đổi thông tin và điểu hành tác chiến đạt cấp độ cao nhất.

Tổ hợp tên lửa phải có thể sử dụng dữ liệu và thông tin từ các hệ thống dẫn đường vệ tinh toàn cầu (GLONASS, NAVSTAR), có khả năng tiêu diệt các mục tiêu chuyển động và các mục tiêu cố định có cấp độ bảo vệ tốt nhất, đốt cháy và phá hủy mục tiêu với hiệu suất cao của vụ cháy nổ (sử dụng thuốc nổ nhiệt áp), đột phá hiệu quả xuyên qua những hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa được hiện đại hóa ở mức cao nhất của đối phương.

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 2
Tên lửa 9М723

Tổ hợp tên lửa chiến thuật (PTRC) Iskander được chế tạo để tiêu diệt các cụm binh lực đối phương với đầu đạn thông thường, mục tiêu có diện tích nhỏ và khu vực mục tiêu tập trung nằm sâu trong bố trí đội hình tác chiến cấp chiến dịch – chiến thuật của đối phương, các mục tiêu có thể:

Các phương tiện hỏa lực (các tổ hợp tên lửa các cấp, các trận địa triển khai các tổ hợp pháo phản lực tên lửa, pháo binh tầm xa);

Hệ thống các trận địa tên lửa,pháo binh chống tên lửa đạn đạo và phòng không;

Sân bay và các cụm máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng trên mặt đất;

Sở chỉ huy các bộ tư lệnh, các đơn vị và các đài, trạm trung tâm thông tin liên lạc, trinh sát tình báo điện tử (các tổ hợp radar, các đài quan sát…);

Các công trìnhquan trọng của cơ sở hạ tầng dân sự;

Cácmục tiêu cơ động lớn (tầu vận tải đường bộ, đường biển);

Các mục tiêu có diện tích nhỏ (hầm phòng thủ, các khu hầm ngầm quân sự, các đài, trạm…) và khu vực tập trung mục tiêu quan trọng khác trong lãnh thổ đối phương.

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 3
Xe phóng đạn tên lửa 9P78

Trang thiết bị biên chế trong tổ hợp gồm có:

Tên lửa9М723;

Xe phóng đạn tự hành (SPU) 9P78;

Xe vận chuyển và nạp đạn (TRV) 9T250;

Xe chỉ huy và điều hành tác chiến (CSV) 9S522;

Xe thu thập và xử lý thông tin (PIP) 9S920;

Xe kiểm chuẩn và bảo trì bảo dưỡng tổ hợp tên lửa (MRTO);

Xe hậu cần;

Xe chở cơ sở vật chất vũ khí, khí tài và trang thiết bị đào tạo.

Tên lửa Iskander 9M723

Tên lửa "Iskander" – là tên lửa sử dụng động cơ đẩy nhiên liệu rắn, một tầng phóng vớiđầu đạn không tách rời khi đang trong quỹ đạo bay. Tên lửa được điều khiển trên toàn bộ đường bay với các cánh điều khiển và luồng khí phản lực.

Quỹ đạo đường bay "Iskander" không phải là đạn đạo, là quỹ đạo điều khiển học. Tên lửa luôn luôn thay đổi tọa độ quỹ đạo bay. Tên lửa đặc biệt cơ động liên tục trên giai đoạn tăng tốc và giai đoạn cuối tiếp cận mục tiêu.

Đường bay tên lửa hầu hết diễn ra trên độ cao là 50 km so với bề mặt trái đất, tên lửa có hệ số phản xạ hiệu dụng rất nhỏ, giảm thiểu tối đa khả năng phát hiện bằng radar của đối phương và đánh chặn trên quỹ đạo bay đến mục tiêu.

Hiệu quả của khả năng "vô hình" của tên lửa đạt được thực hiện nhờ sự kết hợp các giải pháp thiết kế tên lửa với rất ít các góc cạnh làm giảm tối thiểu độ độ phản xạ sóng radio đồng thời được sơn phủ bằng lớp sơn phủ đặc biệt hấp thụ sóng radar và tạo thành nhiệt năng (công nghệ stealth).

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 4
Hai loại đạn tên lửa Iskander
Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 5
Đầu đạn tự dẫn quang học của tên lửa

Trong giai đoạn cuối, khi tiếp cận gần mục tiêu tên lửa được điều khiển bằng phương pháp đạo hàng quán tính, sau đó là phương pháp khóa mục tiêu tự động bằng phương pháp so sánh tương quan ảnh mục tiêu bằng bộ phận tự dẫn quang học trên đầu đạn.

Nguyên lý làm việc của hệ thống tự dẫn quang học là, bộ phận quang học sẽ chụp ảnh địa hình khu vực mục tiêu, máy tính đầu đạn sẽ so sánh ảnh địa hình khu vực mục tiêu với các hình ảnh mẫu tiêu chuẩn được đưa vào bộ nhớ máy tính trước khi phóng đạn. Từ đó máy tính xác định vị trí mục tiêu và điều chỉnh đường đạn. Đầu dẫn quang học có độ cảm biến ánh sáng tự nhiên rất cao, có khả năng chống nhiễu điện từ của các phương tiện, trang thiết bị tác chiến điện tử, cho phép đánh trúng mục tiêu ngay cả ban đêm không có trăng và không có các nguồn chiếu sáng mục tiêu tự nhiên khác với sai số ± 2 m.

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 6

Tên lửa được lắp đặt các loại đầu đạn khác nhau (có 10 loại đầu đạn):

Đầu đạn cassette với các đạn thứ cấp nổ phá mảnh phi tiếp xúc;

Đầu đạn cassettevới các đầu đạn thứ cấp nổ lõm và phá mảnh;

Đầu đạn cassette có lắp các bộ phận tự tìm mục tiêu;

Đầu đạn сassette có thiết bị kích nổ từ xa;

Đầu đạn nổ phá mảnh thông thường;

Đầu đạn nổ phá và gây cháy (đạn tecmit hoặc đầu đạn nhiệt áp);

Đầu đạn xuyên phá bê tông.

Các đầu đạn cassette được bung đạn trên tầm cao từ 0,9 đến 1,4 km, các đầu đạn thứ cấp văng ra theo lực đẩy quán tính và mở các cánh ổn định hoặc dù điều khiển đạn. Đầu đạn thứ cấp được lắp đặt các thiết bị radar tìm kiếm mục tiêu, kích nổ đầu đạn thứ cấp được thực hiện trên độ cao từ 6 đến 10 m trên mục tiêu. Đây là loại đạn nhằm tiêu diệt các mục tiêu như xe tăng, xe thiết giáp tập trung, tấn công từ trên tháp pháo .

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 7
Tên lửa sẵn sàng phóng

Hệ thống bệ phóng tên lửa tự động hoàn toàn và được lắp đặt trên xe cơ giới bánh hơi khung gầm 8 x 8 với khả năng cơ động tăng cường (MAZ-7930). Hệ thống được sử dụng để bảo vệ và vận tải tên lửa, công tác chuẩn bị phóng đạn và phóng đạn trong vùng phóng đạn có góc mở ±90° theo hướng tiến của mũi xe phóng đạn.

Trang thiết bị điện tử đảm bảo xác định tọa độ vị trí đứng, trao đổi thông tin với tất cả các đầu xe điều hành tác chiến và trinh sát dẫn đường điều khiển, thực hiện nhiệm vụ trực chiến, chuẩn bị phóng đạn khi đạn đang ở tư thế nằm trên mặt phẳng ngang, đưa đạn về vị trí phóng đạn thẳng đứng và phóng tên lửa, lưu trữ tên lửa và kiểm tra tên lửa.

Thời gian của bệ phóng mang tên lửa nằm ở tư thế phóng đạn nhỏ nhất là khoảng 20 phút. Để tiến hành phóng đạn không có yêu cầu đặc biệt về công tác chuẩn bị kỹ thuật hoặc xác định tọa độ vị trí phòng đạn. Phóng đạn có thể tiến hành bất cứ lúc nào (từ hành tiến), có nghĩa là xe phóng đạn có thể rẽ vào khu vực nào đó từ đường hành quân (ngoại trừ vùng đất nền yếu như cát, bùn lầy…) và hệ thống trang thiết bị thân xe tự động xác định vị trí, các chiến sĩ trên xe, không dời khỏi cabin tiến hành các hoạt động chuẩn bị phóng tên lửa và phóng.

Sau khi đã phóng tên lửa, xe bệ phóng sẽ quay trở về khu vực nạp đạn tên lửa, có thể là bất kỳ ở đâu, nạp tên lửa vào bệ phóng và sẵn sàng lên đường, phóng tên lửa lần tiếp theo từ bất kỳ vị trí nào trên đường cơ động.

Xe kỹ thuật vận chuyển và nạp đạn cũng được bố trí trên khung gầm thân xe МАZ-79306 và được lắp đặt thêm cẩu mũi tên. Tải trọng của xe kỹ thuật vận tải là 40,000kg, kíp lái 2 người.

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 8
Xe vận chuyển đạn tên lửa

Hệ thống điều khiển tự động dựa trên cơ sở thiết kế một tổ hợp trang thiết bị điều hành thống nhất cho tất cả các cấp chỉ huy và được lắp đặt trên khung gầm của dòng xe KAMAZ. Thiết lập cấp độ chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và điều hành tác chiến (lữ đoàn, tiểu đoàn, khẩu đội) được thực hiện bởi phân cấp phần mềm ứng dụng.

Để đảm bảo việc trao đổi thông tin trong tình huống phóng đạn, trong xe điều khiển lắp đặt thêm thiết bị điều hành tác chiến và đường truyền thông tin. Trao đổi thông tin có thể được thực hiện trên hai loại kênh (mã hóa và không mã hóa thông tin).

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 9
Xe chỉ huy điều hành tác chiến

"Iskander" được tích hợp với các hệ thống tác chiến khác nhau như hệ thống trinh sát và điều hành tác chiến các cấp. Thông tin về mục tiêu được truyền theo các kênh thông tin vệ tinh, kênh của máy bay trinh sát và kênh thông tin của máy bay không người lái trên không (kiểu máy bay không người lái "Reis-D") về trạm thu thập và xử lý thông tin, thiết lập phần tử bắn (PIP).

Hệ thống căn cứ vào nhiệm vụ sẽ tính toán quỹ đạo bay cho các tên lửa đang được chuẩn bị và cung cấp thông tin tham chiếu mục tiêu (không ảnh, tọa độ ..) cho các tên lửa với đầu tự dẫn quang ảnh (OGSN), sau đó thông tin được truyền phát bằng sóng radio đến xe chỉ huy, tham mưu tác chiến (CSV) của tiểu đoàn và khẩu đội, từ đó truyền đến - xe bệ phóng tên lửa. Lệnh phóng tên lửa có thể được hình thành từ xe chỉ huy điều hành tác chiến tiểu đoàn, hoặc có thế đến từ cấp chỉ huy và điều hành tác chiến của lực lượng pháo binh cấp cao hơn.

Xe kỹ thuật chuẩn chỉnh và bảo trì bảo dưỡng (MRTO) được đặt trên khung gầm của dòng xe "KAMAZ" và được sử dụng để kiểm tra, điều chỉnh thiết bị trong tên lửa khi tên lửa đang nằm trên các xe vận tải và nạp đạn TLV (cũng như trong các thùng chứa container), kiểm tra các trang thiết bị, bộ phận và chi tiết trong cơ số các phụ tùng thay thế, bảo trì, bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ tên lửa bởi các thành viên trên xe MRTO. Khối lượng thân xe - 13500 kg, thời gian triển khai - 20 phút, thời gian trang thiết bị thân xe kiểm tra hết quy trình kiểm tra các bộ phận thiết bị tên lửa -. 18 phút, Kíp chuyên viên bảo trì, sửa chữa - 2 người.

Xe hậu cần và đảm bảo sinh hoạt đời sống của khẩu đội được sử dụng để các kíp trắc thủ (có thể đến 8 người) ăn nghỉ cùng một lúc.

Tên lửa Iskander – E (phiên bản dành cho xuất khẩu)

Iskander-M, nỗi kinh hoàng của NATO ảnh 10
Biên chế các phương tiện chiến đấu của khẩu đội

Thông số kỹ thuật chung

Tầm bắn gần nhất : 50 km; tầm bắn xa nhất, max: 280 km

Độ chính xác (КVО) khi không lắp hệ thống tự dẫn: 30-70 m; lắp hệ thống tự dẫn: 5-7 m

Số lượng tên lửa, quả: Trên xe bệ phóng đạn: 2

Trên xe vận tải: 2

Thời gian cần thiết phóng đạn khi đang ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu: Không lớn hơn 4 phút; từ hành tiến: Không lớn hơn 16 phút

Dải nhiệt độ hoạt động, °С ±50

Khả năng phóng đạn trên độ cao so với mặt nước biển, m: Đến 3000

Tên lửa 9М723

Loại: Sử dụng nhiên liệu rắn, một tầng phóng

Khối lượng tên lửa khi phóng, kg: 3800

Khối lượng đầu đạn, kg: 480

Chiều dài, mm: 7200

Đường kính lớn nhất, mm: 950

Xe tự hành phóng tên lửa 9P78

Khối lượng tổng thể, tấn: 42

Khối lượng tải trọng hiệu dụng, tấn: 19

Tốc độ tối đa trên đường nhựa: 70km/h; trên đường đất: 40 km

Dự trữ hành trình, km: 1000

Kíp xe, người: 3

Xe chỉ huy điều hành tác chiến 9S522

Số lượng vị trí công tác điều hành tác chiến: 4 người

Tầm xa hoạt động của thiết bị thông tin tại chỗ: 350 km; cơ động: 50km

Thời gian các trắc thủ tính toán thực hiện nhiệm vụ: Đến 10s

Thời gian truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu: 15s

Số lượng các kênh truyền thông: 16

Tốc độ truyền (nhận) thông tin, KB/s: 16

Thời gian triển khai trang thiết bị(thu hồi trang thiết bị (triển khai anten/thu hồi anten): 30 phút

Thời gian hoạt động liên tục: 48 giờ

Trạm thu thập và xử lý thông tin mục tiêu 9S920

Vị trí công tác tự động hóa số liệu, chỗ: 2 người

Thời gian xác định tọa độ mục tiêu: 0,5 đến 2 phút

Thời gian chuyển tải thông tin chỉ thị mục tiêu: 1 phút

Thời gian hoạt động liên tục: 16 giờ

Iskander-M – phiên bản cho các lực lượngvũ trang liên bang Nga, 2 bệ phóng tên lửa trên xe bệ phòng, tầm bắn tính từcác quy định cho "Iskander-E" - 280 km, đến 500 km. Không có quy định cụ thể loại đầu đạn (khối lượng đầu đạn) để đạt được tầm bắn đó.

Iskander-K — phiên bản cái tiến có sử dụng tên lửa hành trình, có tầm bắn là 500km, đầu đạn nặng 480kg. Tên lửa hành trình R- 500 có thể bay đến 2000 km

Iskander-E —phiên bản xuất khẩu, có tầm bắn đến 280 km, khối lượng đầu đạn 480 kg, đáp ứng những yêu cầu về kiểm soát công nghệ chế tạo tên lửa, chống sao chép.

Trịnh Thái Bằng theo InfoNet