Ba đội quân Việt Nam và “trận Điện Biên Phủ” mới

VietTimes -- Kẻ thù có thể sử dụng công nghệ siêu hiện đại với những đòn tấn công lớn cả về quy mô lẫn số lượng thì mọi cuộc chiến tranh đều có thể kết thúc bằng một “Điện Biên Phủ” mới ở Việt Nam.
Hệ thống chế áp điện tử chủ động SPN – 2 và SPN - 4.
Hệ thống chế áp điện tử chủ động SPN – 2 và SPN - 4.

Ba đội quân phòng thủ

Sức mạnh thật sự của hệ thống tác chiến điện tử trong tương lai không nằm của các phương tiện TCĐT của quân đội và cảnh sát biển, nó nằm trong sự phát triển lực lượng tác chiến điện tử toàn dân, do mọi thành phần kinh tế, nghiên cứu khoa học kết hợp với lực lượng vũ trang tạo thành. Để thực hiện được một mạng lưới trinh sát điện tử dày đặc, là tai mắt của hệ thống phòng thủ đất nước, cần có những hệ thống trang thiết bị trinh sát điện tử gọn nhẹ, có thể chỉ là những đầu thu tín hiệu đa dụng được lắp đặt trong các hệ thống radar dẫn đường, hệ thống đài vô tuyến điện và điện thoại, các camera quan sát trên biển, các thiết bị phao trinh sát thủy âm trên tàu, thuyền đánh cá, nghiên cứu biển, các tàu du lịch và các tàu tuần biển của bộ đội biên phòng.

Như vậy, hệ thống TSĐT của nền quốc phòng toàn dân sẽ là: Cơ quan chỉ huy, điều hành trinh sát điện tử cấp cao nhất (Bộ TTM, cơ quan tham mưu quân chủng và lực lượng), cơ quan tham mưu cấp quân khu, cơ quan tham mưu các địa phương, các đơn vị trinh sát điện tử cấp quân binh chủng, quân khu, quân đoàn, các đơn vị trinh sát điện tử địa phương và các tổ chức đơn vị trinh sát điện tử của lực lượng dân quân tự vệ bờ biển và biển được đồng bộ hóa, nhất thể hóa trên nền tảng của hệ thống quản lý, thu thập và xử lý thông tin kỹ thuật số, trinh sát điện tử đa phương tiện, liên kết phối hợp thống nhất với từng cấp, từng mức độ thu thập và xử lý thông tin, từ các hiện tượng đến các sự kiện. Đảm bảo tác chiến liên tục, trong cả thời bìnhvà thời chiến.

Với một chương trình huấn luyện nâng cao của lực lượng dân quân tự vệ biển, lực lượng bán vũ trang như hải quan, biên phòng, cảnh sát biển về các hoạt động trinh sát điện tử. Đơn giản là bật hoặc tắt, bảo quản các trang thiết bị và đảm bảo thông tin liên lạc. Khu vực phòng thủ đất nước sẽ có được một hệ thống trinh sát điện tử canh trời biển ngày đêm. Với sự phối hợp chặt chẽ của lực lượng TSĐT 3 thứ quân

Tàu tác chiến điện tử Ural 7 SSV -33.
Tàu tác chiến điện tử Ural 7 SSV -33.

 Để có thể kiểm soát, trinh sát và thu thập được một cơ sở dữ liệu của tất cả các phương tiện hoạt động trên không, trên biển và dưới biển, cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về các phương tiện quân sự hoạt động trên không gian biển, từ đó có thể xác định được các hiểm họa và nguy cơ, cũng như có được những căn cứ để xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm.

Hệ thống nằm trong sự quản lý và điều hành của Bộ tổng tham mưu, bộ tham mưu lực lượng Hải quân và kết nối với tất cả các đầu thu tín hiệu trên mọi phương tiện trinh sát và TCĐT, thông qua hệ thống nhận biết mục tiêu và xử lý kỹ thuật số. Trở thành các chuẩn (templete) phục vụ cho mục đích tác chiến sau này.

Khi tình huống xảy ra căng thẳng có thể dẫn đến xung đột quân sự và chiến tranh khu vực. Mạng lưới trinh sát điện tử sẽ nhanh chóng được chuyển trạng thái chiến đấu, các phương tiện trinh sát thời bình sẽ chuyển thành các phương tiện trinh sát thời chiến theo kế hoạch phòng thủ khu vực và phòng thủ đất nước trong thời gian ngắn nhất.

Sức mạnh tác chiến phi đối xứng

Từ sau chiến tranh Việt Nam, các cường quốc quân sự thế giới đã thay đổi hoàn toàn mô hình chiến tranh, tính từ cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21, mô hình tiến hành một cuộc chiến tranh “dồn nén thời gian” đã được hình thành trên cả lý luận và thực tiễn với sự tham gia trên quy mô lớn các loại vũ khí trang bị công nghệ cao, mà mũi nhọn là tên lửa hành trình đa tầm, bom liệng có điều khiển quang điện tử và máy bay không người lái.

Sự kết hợp giữa của hệ thống tác chiến tiến công bao gồm TCĐT và vũ khí có độ chính xác cao (VKCX) là nòng cốt của các hoạt động tác chiến nhằm đánh quỵ tiềm lực quốc phòng của đối phương, phá hủy hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến và hệ thống phòng không, chống tàu. So sánh với các loại vũ khí khác tính từ sau chiến tranh ở chiến trường Nam Tư, hệ thống vũ khí chính xác và TCĐT có những ưu điểm mà không có hệ thống vũ khí trang bị nào trước đây có được.

Thứ nhất: hệ thống VKCX và TCĐT giảm thiểu đến tối đa khả năng tác chiến tiếp xúc với đối phương. Từ đó giảm thiểu tổn thất các phương tiện mang và binh lực những vẫn đạt được mục đích đặt ra. Thứ hai: khả năng vô tận của các trang thiết bị, khí tài chế áp điện tử chủ động trong việc phát hiện mục tiêu và tầm xa các hoạt động chế áp của khí tài, khi sử dụng các phương pháp tìm kiếm và dẫn đường chủ động.

Hiện nay, các cường quốc quân sự đã chế tạo và áp dụng thử thành công các bộ khí tài chế áp điện tử, có khả năng phá hủy hoàn toàn các hoạt động nội hàm của các phương tiện TCĐT đối phương, các chương trình phần mềm điều hành tác chiến và các trang thiết bị điện tử thông thường (bom viba, các bộ khí tài phát xung radio định hướng).

Từ những nhận định về VKCX và TCĐT trong một hệ thống chiến đấu tấn công. Có thể nhận thấy, để có thể giành thắng lợi trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ Quốc. Các lực lượng vũ trang QĐND Việt Nam phải có những phương án, xây dựng những khả năng, tăng cường vũ khí trang bị và phát huy nghệ thuật tác chiến sở trường.

Đặc điểm của TCĐT trên chiến trường Việt Nam giai đoạn hiện này là tác chiến phòng ngự tấn công, cơ động linh hoạt và sử dụng triệt để lực lượng vũ trang 3 thứ quân. Với tiềm lực kinh tế - quốc phòng không cao và tiềm năng công nghệ - công nghiệp quốc phòng. Thông thường sẽ là phương án phòng ngự và tiến hành chiến tranh phi đối xứng.

Mục đích của hệ thống chiến tranh điện tử phi đối xứng là nhằm vô hiệu hóa các loại VKCX của đối phương đi kèm với việc vô hiệu hóa vũ khí TCĐT của đối phương. Do đó, trang thiết bị, khí tài tác chiến điện tử mà nòng cốt sẽ là các phương tiện chế áp điện tử thụ động kết hợp với các phương tiện TCĐT chủ động nhằm vô hiệu hóa các loại vũ khí VKCX vượt qua khỏi hệ thống phòng ngự điện tử.

Hệ thống TCĐT phi đối xứng: Đó là các hệ thống gây nhiễu thụ động bằng các phương tiện cơ sở vật chất sẵn có trong khả năng nghiên cứu và chế tạo, hình thành các khu vực tác chiến nhiễu loạn điện từ trường, nhằm vô hiệu hóa khả năng tự dẫn của vũ khí đối phương. Các loại trang thiết bị gây nhiễu thụ động tạo xung phản xạ bảo vệ mục tiêu.

Các trang thiết bị nhằm vô hiệu hóa khả năng định vị vệ tinh của hệ thống (GPS, Glonass hay Bắc Đẩu). Các hệ thống này kết hợp với hỏa lực phòng không của các khu vực phòng thủ và hỏa lực phòng không của chiến tranh nhân dân tạo thành một thế trận phòng ngự dày đặc ngăn chặn khả năng sử dụng vũ khí VKCX và các đòn tấn công TCĐT của đối phương.

Nghiên cứu các phương tiện VKCX cho thấy. Các tên lửa hành trình hiện nay mà điển hình là tên lửa hành trình Tomahawk cấp chiến thuật có tầm tấn công từ khoảng cách 1500 km đến mục tiêu, tầm bay hành trình trên mặt biển từ 5 -10 m, tầm bay trên địa hình từ 30 m – 120 m, có khả năng bay theo các quỹ đạo phức tạp do lập trình đường bay dựa trên cơ sở dẫn đường quán tính, so ảnh scaner địa hình và hệ thống định vị vệ tinh. Các loại phương tiện mang khác đều có tính năng tương đương như vậy.

Phương pháp tiến công của VKCX cũng tương tự như nhau, sử dụng các đầu tự dẫn quang - ảnh nhiệt kết hợp với đầu tự dẫn radars, một số các loại bom, tên lửa có đầu tự dẫn phản xạ laser hoặc tự dẫn hồng ngoại. Hầu hết các loại đạn có điều khiển đều có thể tấn công tầm xa, từ khoảng cách 80 – 130 km, các loại tên lửa hành trình có tầm tấn công xa hơn rất nhiều, đến hàng nghìn km.

Như vậy, trên cơ sở các thông số tính năng kỹ chiến thuật của các loại đạn có điều khiển với tầm bắn xa. Để bảo vệ được các mục tiêu quan trọng trong hệ thống phòng thủ đất nước, hệ thống phòng ngự TCĐT được chia thành 4 lớp phòng thủ trong hệ thống phòng thủ chung của đất nước và phòng thủ khu vực: Hệ thống phòng thủ tầm xa, hệ thống phòng trung, hệ thống phòng thủ tầm gần và hệ thống phòng thủ mục tiêu.

Sơ đồ tác chiến điện tử phi đối xứng.
Sơ đồ tác chiến điện tử phi đối xứng.

Do các đòn tấn công từ xuất phát từ hướng biển và đường bờ biển nước ta kéo dài suốt từ Bắc tới Nam là 3.260 km, các khu vực mục tiêu quan trọng đều nằm ven biển. Do đó tuyến phòng thủ tầm xa phải có tầm tác chiến lớn hơn 120 km tính từ mép biển. Tuyến phòng thủ điện tử tầm xa do hệ thống các thiết bị gây nhiễu dẫn đường vệ tinh GPS như “Tyman – 2” “Optima -3” đảm nhiệm kết hợp với các đài gây nhiễu tầm xa "Pelena-1"ở khu vực xung yếu, nơi có nhiều khả năng quỹ đạo đường bay của các tên lửa hành trình và máy bay không người lái tiếp cận bờ biển vào đất liền. Tuyến phòng thủ tầm xa có tác dụng gây nhiễu và ngăn chặn hệ thống dẫn đường, điều khiển VKCX trên đường bay đến mục tiêu.

Thiết bị gây nhiễu GPS Optima -3.

Thiết bị gây nhiễu GPS Tuman – 2.
Thiết bị gây nhiễu GPS Tuman – 2.
Đài gây nhiễu chủ động tầm xa Pelena-1.
Đài gây nhiễu chủ động tầm xa Pelena-1.

Tuyền phòng thủ tầm trung được tính từ khoảng cách 40 – 50 km so với khu vực mục tiêu trọng yếu cần bảo vệ. Đây là tuyến phòng thủ được tổ chức xen kẽ giữa hệ thống gây nhiễu thụ động bằng các băng dây kim loại lưỡng cực, các loại hạt có khả năng gây nhiễu kết hợp với các trận địa phòng không và các đài chế áp điện tử bảo vệ mục tiêu như Liman (chế áp hệ thống thông tin trên không), Lotoc (chế áp hệ thống liên lạc viễn thông) và các đài gây nhiễu hệ thống dẫn đường vệ tinh GPS.

Kinh nghiệm của chiến tranh phòng không Việt Nam cho thấy, những đám mây nhiễu lưỡng cực gây rất nhiều khó khăn trong việc xác định mục tiêu của các đài radar điều khiển hỏa lực chủ động. Vật liệu gây nhiễu điện tử thụ động ngày nay có thể gây nhiễu cả hệ thống radars dẫn đường và hệ thống quang – điện tử xác định tọa độ mục tiêu.

Thông thường tuyến phòng thủ tầm trung thường được bố trí thành các khu vực trận địa tác chiến điện tử, kết hợp giữa các khí tài, phương tiện TCĐT với các trận địa tên lửa, pháo binh phòng không các cỡ nòng được điều khiển hỏa lực bằng hệ thống radars kỹ thuật số nhằm giảm thiểu tối đa số lượng đầu đạn tấn công của đối phương.

Đài chế áp điện tử Liman.
Đài chế áp điện tử Liman.
Đài chế áp liên lạc vệ tinh định hướng Lotoc.
Đài chế áp liên lạc vệ tinh định hướng Lotoc.

Tuyến phòng thủ tầm gần là tuyến phòng thủ nằm trong tầm hỏa lực tiêu diệt mục tiêu của các phương tiện phòng không bảo vệ mục tiêu như tên lửa tầm thấp, pháo phòng không các cỡ nòng như tổ hợp Shilka..trên khoảng cách xa đến 30km so với khu vực mục tiêu. Hệ thống TCĐT bao gồm các tổ hợp gây nhiễu bảo vệ các cụm mục tiêu như tổ hợp "Diabazol", các đài gây nhiễu bảo vệ mục tiêu 1L269 Krasuha-2, CPN-4, CPN -30M hoặc các hệ thống trinh sát và TCĐT của các đài gây nhiễu CPN -2, CPN-4.

Tổ hợp tác chiến điện tử đa năng - 1L269 Krasuha-2.
Tổ hợp tác chiến điện tử đa năng - 1L269 Krasuha-2.
Hệ thống chế áp điện tử chủ động SPN – 2 và SPN - 4.
Hệ thống chế áp điện tử chủ động SPN – 2 và SPN - 4.

Tuyến phòng thủ điện tử bảo vệ mục tiêu. Đó là hệ thống các trang thiết bị TCĐT bảo vệ mục tiêu đó khỏi các đòn tấn công của VKCX, tên lửa chống radar và các đòn tấn công của các phương tiện tác chiến điện tử khác của đối phương. Đây là hệ thống phòng thủ quan trọng nhất và cũng là hệ thống đảm bảo an toàn cao nhất trước những đòn công kích hủy diệt của kẻ thù. Hệ thống phòng thủ điện tử bảo vệ mục tiêu tùy theo tính chất mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ, tính năng kỹ chiến thuật và khả năng tấn công của đối phương để thực hiện.

Nhằm bảo vệ các mục tiêu có tính cố định, có kích thước lớp và hình khối (cầu, bến cảng, các tòa nhà lớn, các công trình xây dựng) sẽ hình thành tuyến phòng thủ tầm trung bảo vệ khu vực mục tiêu, tầm gần bảo vệ mục tiêu và tuyến phòng thủ điện tử bảo vệ mục tiêu. Đối với các mục tiêu khác như trận địa, các phương tiện tác chiến có thể cơ động phân tán hoặc ẩn nấp (các hệ thống tên lửa đạn đạo, hệ thống tên lửa chống tàu, hệ thống tên lửa phòng không, ….) sẽ tổ chức liên kết phối hợp với hệ thống phòng thủ tầm trung và xây dựng hệ thống phòng thủ điện tử mục tiêu theo yêu cầu tác chiến.

Đối với các phương tiện tác chiến có sức cơ động cao như các chiến hạm, các đơn vị xe tăng – thiết giáp của các đơn vị binh chủng hợp thành, trong điều lệnh tác chiến đã được biên chế các loại vũ khí, phương tiện tác chiến điện tử. Với các mục tiêu quan trọng khác, hệ thống tác chiến điện tử bảo vệ mục tiêu thường có: các bộ khí tài nghi binh tạo mục tiêu giả (bao gồm cả mục tiêu giả bằng vật liệu hoặc bằng khí tài quang – điện tử) đánh lừa địch, các bộ khí tài ngụy trang tạo màn khói mù chống các đầu đạn tự dẫn bằng hồng ngoại, laser, các bộ khí tài phản xạ gây nhiễu thụ động kiểu khối góc lập phương hoặc quả cầu phản xạ Lyneberga và các đài gây nhiễu chủ động CPN -30M hoặc tổ hợp gây nhiễu chủ động 1L269 Krasuha-2.

Với các trận địa chiến đấu có địa bàn rộng lớn như trận địa tên lửa, trận địa pháo bờ biển, tên lửa phòng thủ bở biển hải đảo hoặc các mục tiêu quan trọng khác, sẽ sử dụng các tổ hợp gây nhiễu trên không gian rộng lớn hơn như Tổ hợp “Diabazol”. Ngoài các phương tiện gây nhiễu điện tử, ngụy tranh, nghi binh. Để bảo đảm an toàn tối đa trong hệ thống còn được biên chế các tổ hợp hỏa lực tầm gần như tên lửa vác vai Igla, xe thiết giáp phòng không Shika hoặc các phương tiện module phòng không tầm cận gần như các tổ hợp "Pantsirt-C1" Palma.

Tổ hợp đài chế áp điện tử bảo vệ mục tiêu “Diabazol”. 

Trong chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc, các hệ thống tác chiến hiện đại là thành phần chủ chốt của hệ thống phòng thủ đất nước. Sự sống còn và khả năng chiến đấu được bảo đảm và tăng cường bởi hệ thống phòng thủ toàn dân, trong đó có lực lượng dân quân tự vệ và quần chúng nhân dân. Chiến tranh hiện đại đòi hỏi lực lượng vũ trang thứ 3 hùng hậu này cũng cần được hiểu biết sâu sắc về chiến tranh điện tử phi đối xứng.

Kinh nghiệm chống chiến tranh đường không của Miền Bắc trước đây cho thấy, hệ thống phòng không nhân dân đóng vai trò quan trọng trong chiến đấu với các loại vũ khí công nghệ cao. Thế trận phòng không tầm thấp là sức mạnh ưu việt nhất và cũng đem lại hiệu quả tác chiến cao nhất.

Trong tương lai, các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên cần được tăng cường các trang thiết bị hiện đại của TCĐT như các thiết bị gây nhiễu GPS, huấn luyện thành thạo các phương án gây nhiễu thụ động nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các mục tiêu quan trọng, xây dựng các khu vực trú ẩn và ngụy trang chống trinh sát hồng ngoại, thiết kế và chế tạo các bộ khí tài nghi binh, đánh lừa địch đồng thời đồng bộ hóa công tác chỉ huy, điều hành tác chiến, liên kết phối hợp với các lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trong TCĐT.

Với một hệ thống phòng ngự TCĐT và chống VKCX được triển khai sâu rộng trên cả nước. Mặc dù kẻ thù có thể sử dụng mọi thủ đoạn, mọi biện pháp tác chiến, ứng dụng công nghệ siêu hiện đại với những đòn tấn công lớn cả về quy mô lẫn số lượng thì mọi cuộc chiến tranh công nghệ cao đều có thể kết thúc bằng một “Điện Biên Phủ” mới ở Việt Nam.

TTB