400 tỷ USD chip AI và cảnh báo tuổi thọ 2–3 năm
PGS. TS Trần Minh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) trao đổi thông tin trên tại Hội nghị quốc gia lần thứ 28 về Điện tử, Truyền thông và Công nghệ thông tin (REV-ECIT 2025) diễn ra ngày 20/12.
Phân tích hiện trạng hạ tầng AI tại Việt Nam, PGS. TS Trần Minh Tuấn chỉ ra tổng công suất hạ tầng AI của cả nước chỉ đạt khoảng 51 MW, trong khi đã có tới 61,2% doanh nghiệp Việt Nam triển khai các giải pháp trí tuệ nhân tạo, cho thấy sự chênh lệch lớn giữa nguồn cung hạ tầng và nhu cầu ứng dụng.
Trong số 61,2% doanh nghiệp Việt Nam đã hoặc đang triển khai giải pháp AI, chỉ 22% trong số đó thực sự sẵn sàng khai thác toàn diện tiềm năng công nghệ. Con số này cho thấy khoảng cách đáng kể giữa việc sở hữu AI và năng lực vận hành thành thạo.
Hai rào cản lớn nhất khiến doanh nghiệp khó tiếp cận AI là chi phí triển khai cao, với 46,7% cho biết gặp khó khăn tài chính, và thiếu hụt nhân lực chuyên sâu, chiếm 43,7%.
Theo PGS.TS Trần Minh Tuấn, những hạn chế này bắt nguồn từ 3 thách thức mang tính quốc gia: Quy mô hạ tầng AI hiện tại còn rất nhỏ so với nhu cầu kinh tế; thiếu nguồn điện công suất lớn và ổn định để vận hành các trung tâm dữ liệu; và chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn định hướng phát triển hạ tầng AI.
Ông cũng cảnh báo về bài toán kinh tế của chip AI dựa trên các nghiên cứu gần đây của Princeton, D.A. Davidson và Meta. Năm 2025, ngành công nghệ toàn cầu đã chi khoảng 400 tỷ USD vào chip AI và trung tâm dữ liệu, nhưng khoản đầu tư khổng lồ này đối mặt rủi ro lớn khi nghiên cứu của Princeton cho thấy tuổi thọ thực tế của chip AI chỉ khoảng 2–3 năm, thấp hơn nhiều so với mức 6 năm mà các công ty công nghệ từng kỳ vọng.
Dẫn dự báo thị trường AI Việt Nam tăng trưởng khoảng 18% mỗi năm từ 2024, ông Tuấn cho rằng quy mô đạt 1,6 tỷ USD vào năm 2030, tốc độ tăng trưởng này thúc đẩy các doanh nghiệp lớn đồng loạt mở rộng hạ tầng AI với quy mô trong khu vực.
PGS. TS Trần Minh Tuấn cũng nhấn mạnh sáu lĩnh vực có nhu cầu ứng dụng AI cao nhất bao gồm tài chính ngân hàng, chính phủ và dịch vụ công, sản xuất và ô tô, y tế chăm sóc sức khỏe, viễn thông và bán lẻ. Đây là những ngành then chốt đang chạy đua chuyển đổi số để nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo ra nhu cầu khổng lồ về sức mạnh tính toán và khả năng xử lý dữ liệu quy mô lớn mà chỉ hạ tầng AI hiện đại mới đáp ứng được.
Mở đường cho thị trường hóa công nghệ và tài sản trí tuệ
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KHCN Phạm Đức Long cho rằng lĩnh vực điện tử, truyền thông và công nghệ thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng. "Đây vừa là nền tảng của hạ tầng số, vừa là không gian hội tụ của các công nghệ số then chốt, tạo ra mô hình tăng trưởng mới và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia", ông Long nói.
Thứ trưởng Phạm Đức Long cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ xác định một số định hướng trọng tâm năm 2026 là tiếp tục rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, khơi thông và huy động hiệu quả các nguồn lực cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tinh thần xuyên suốt các Luật mới là chuyển mạnh từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo, từ “quản lý đầu vào” sang “đánh giá đầu ra”, từ sản trải sang tập trung vào các công nghệ chiến lược.
Thứ trưởng Long nhắc tới một định hướng quan trọng là triển khai mạnh mẽ cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với các mô hình, sản phẩm và phương thức kinh doanh mới, qua đó rút ngắn khoảng cách từ nghiên cứu đến ứng dụng và thương mại hóa; triển khai đưa tài sản trí tuệ thành tài tài sản có thể giao dịch, lưu thông trên thị trường.
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua đã mở ra một cách tiếp cận hoàn toàn mới, coi kết quả nghiên cứu, sáng chế, giải pháp hữu ích là tài sản thực sự của nền kinh tế, có thể định giá, góp vốn, chuyển nhượng và khai thác.
"Phát triển thị trường tài sản trí tuệ là cách nhanh nhất để biến tri thức thành của cải, biến nghiên cứu thành năng lực cạnh tranh quốc gia", Thứ trưởng Phạm Đức Long nhấn mạnh.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm "mở đường" thông qua thể chế, chính sách và định hướng chiến lược. Tuy nhiên, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và đội ngũ nhà khoa học mới là lực lượng trực tiếp tạo ra tri thức, công nghệ, sản phẩm và dịch vụ.
Doanh nghiệp cần tham gia sâu hơn ngay từ đầu vào quá trình đặt hàng, xác định bài toán nghiên cứu; các viện, trường cần gắn nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của thị trường và đất nước. Sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước - Nhà khoa học - Doanh nghiệp là điều kiện then chốt để hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiệu quả. Trong mô hình này, nhà khoa học, nhà nghiên cứu không chỉ là người công bố kết quả nghiên cứu, mà là chủ thể đồng hành cùng quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ trưởng kêu gọi các tổ chức, doanh nghiệp và các nhà khoa học tiếp tục lan tỏa, phát huy mạnh mẽ tinh thần "Make in Vietnam" - sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, sản xuất tại Việt Nam; chuyển mạnh từ gia công, lắp ráp sang làm chủ thiết kế, công nghệ, tiêu chuẩn, nền tảng và chuỗi giá trị.
TS Trần Đức Lai, Chủ tịch Hội Vô tuyến - Điện tử Việt Nam, cho biết Ban tổ chức nhận được 153 bài báo từ các tác giả thuộc hơn 60 trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức khoa học trên toàn quốc.
Qua gần 400 lượt phản biện, Ban tổ chức chấp nhận 128 công trình để trình bày và đăng kỷ yếu, với 64 báo cáo trực tiếp trong 6 tiểu ban và 54 bài poster.
Hội nghị có 8 phiên báo cáo khoa học với 64 công trình nghiên cứu nổi bật.
Đánh giá tính ứng dụng thực tế nổi bật trong 128 công trình được chấp nhận năm nay, PGS. TS Nguyễn Tiến Hòa, Trường Điện - Điện tử, Đại học Bách khoa Hà Nội, Trưởng Ban Chương trình Hội nghị nhấn mạnh: "Nhiều nghiên cứu vượt ra khỏi lý thuyết và mô phỏng, hướng tới giải quyết các bài toán kỹ thuật công nghệ cụ thể bằng dữ liệu thực, xây dựng hệ thống mẫu và quy trình thử nghiệm rõ ràng. Các công trình đều có chất lượng tốt và tương đối đồng đều, mỗi nghiên cứu mang giá trị riêng nên việc so sánh khá khó.
Nếu phải chọn một công trình minh họa cho xu hướng nghiên cứu ứng dụng thực tế, tôi ấn tượng với nghiên cứu phát hiện UAV ngoài trời bằng LiDAR Time-of-Flight chi phí thấp. Công trình giải quyết bài toán thời sự, có kiến trúc hệ thống rõ ràng và đã thử nghiệm trong điều kiện thực tế, cho thấy khả năng triển khai ngoài phòng thí nghiệm".