Ngày 15/3, tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì hội nghị quy mô lớn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức nhằm tìm giải pháp phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo báo cáo của Đồng bằng sông Cửu Long, trong năm qua ngành lúa gạo của vùng đã cung cấp đến 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước, có thời điểm, xuất khẩu gạo mang về 3,67 tỷ USD cho nền kinh tế quốc dân.
Ước tính 2 tháng đầu năm 2017, các doanh nghiệp xuất khẩu 787.235 tấn gạo, trị giá hơn 328 triệu USD, giảm 18,5% về lượng, 21,4% về trị giá so với cùng kỳ.
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong số ít khu vực trên thế giới có lợi thế đặc biệt về sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản với đất đai bằng phẳng, màu mỡ và diện tích lớn (gần 2 triệu ha đất lúa và 4 triệu ha gieo trồng), nguồn nước dồi dào do từ dòng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, thực tiễn trong những năm qua cho thấy ngành hàng lúa gạo đã và đang đối mặt với những thách thức to lớn, đe dọa tới sự phát triển bền vững, sự sống còn của một ngành hàng gắn bó với hàng chục triệu người dân.\
Hạn chế lớn nhất của ngành lúa gạo là do hiệu quả chuỗi giá trị còn thấp do tỷ lệ thất thoát cao. Chất lượng gạo xuất khẩu còn thấp, tỷ lệ gạo trên 15% tấm còn chiếm tới 36%.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu, khô hạn, nước biển dâng, xâm nhập mặn cũng là những vấn đề mà Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay đang phải đối diện. Cùng với đó là sự thay đổi căn bản về nguồn nước ở thượng nguồn sông Mekong do hoạt động kinh tế của các quốc gia đầu nguồn.
Điều này dẫn đến việc nông dân sản xuất lúa gạo của Đồng bằng sông Cửu Long vẫn nghèo, thu nhập từ sản xuất lúa gạo còn thấp, người sản xuất được hưởng lợi nhuận thấp nhất trong chuỗi sản xuất lúa gạo.
Làm sao để đời sống người nông dân khá hơn?
Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt vấn đề, phải làm sao để đời sống người nông dân khá hơn, doanh nghiệp phát triển tốt, thị trường ổn định trong môi trường cạnh tranh cao.
Đánh giá cao vai trò của khoa học công nghệ và sự chỉ đạo, điều hành của các địa phương trong vùng, đặc biệt là bà con nông dân Đồng bằng sông Cửu Long miệt mài, cần cù “một nắng, hai sương” trên đồng ruộng, Thủ tướng cũng ghi nhận vai trò của các doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến tiêu thụ gạo thời gian qua, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và phát triển ngành sản xuất lúa gạo của cả nước.
Thủ tướng cũng nhìn nhận hiệu quả trồng lúa còn thấp, kể cả sản xuất 3 vụ /năm, lãi gộp cao nhất cũng chưa đến 30 triệu đồng.
Trên vựa lúa lớn nhất của đất nước, người nông dân bao đời nay cũng chỉ lấy công làm lãi, Thủ tướng nói.
Thủ tướng nêu rõ lúa gạo ở Việt Nam, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long, tiếp tục được khẳng định là vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, mang tầm quốc tế. Lúa gạo đóng vai trò không thể thay thế được trong nông nghiệp Việt Nam - trụ đỡ của nền kinh tế với giá trị xuất khẩu từ nông nghiệp chiếm trên 32 tỷ USD năm 2016; đồng thời có tới 70% dân số cả nước sống ở nông thôn; gần 50% lao động cả nước thuộc lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
Nhấn mạnh, lúa gạo còn là một trong những loại nông sản chiến lược mà Việt Nam có lợi thế hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực nông nghiệp, Thủ tướng cho rằng nếu áp dụng sản xuất lớn, kết hợp chế biến sâu, tiếp thị tốt thì hiệu quả kinh tế ngành lúa có thể tăng nhiều lần và tiếp tục sinh lợi cao.
Thêm vào đó, xét về điều kiện sinh thái, khó có cây trồng nào có thể thay thế được diện tích lúa trên quy mô lớn ở Việt Nam. Đặc biệt, nếu có giải pháp khoa học công nghệ tốt còn có thể kết hợp trồng lúa với cây màu, nuôi trồng thủy sản phù hợp với biến đổi khí hậu. Đây còn là truyền thống quý báu của cha ông ta, Thủ tướng nói.
Đổi mới toàn diện ngành lúa gạo
Thủ tướng nêu vấn đề ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam đang đứng trước "giờ G" của công cuộc đổi mới. Việc này đòi hỏi một tư duy kiến tạo toàn diện từ nền tảng chính sách pháp luật đến cấu trúc vận hành, công nghệ sản xuất. Bởi vậy, ngành lúa gạo Việt Nam cần một tầm nhìn mới đi kèm những hoạch định chiến lược phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, để hạt gạo Việt Nam đáp ứng sâu sắc nhu cầu tiêu dùng châu Á và thế giới; đem lại giá trị gia tăng tốt nhất cho người trồng lúa ở Việt Nam và các doanh nghiệp lúa gạo.
Việt Nam sẽ không chỉ là một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đạt mức kim ngạch hàng đầu thế giới mà phải phấn đấu trong 10 đến 20 năm tới, hạt gạo do người nông dân và doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ra sẽ đem lại những giá trị gia tăng tốt nhất dựa trên việc đáp ứng một cách tinh tế các nhu cầu và tiêu chuẩn phổ quát về dinh dưỡng và dược liệu, góp phần củng cố danh tiếng của một trong những nền văn minh nông nghiệp lâu đời nhất của thế giới, Thủ tướng nêu rõ.
Trên tinh thần đó, Thủ tướng đề nghị đổi mới toàn diện ngành sản xuất lúa gạo bằng những giải pháp đột phá về thể chế chính sách và cả mô hình phát triển. Thủ tướng gợi mở, đầu tiên là phải thay đổi quy mô từng nông hộ bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.
Thủ tướng nêu rõ phải giữ đất lúa nhưng xem xét lại mùa vụ, xen canh cùng với đất lúa trên cơ sở kết quả nghiên cứu khoa học. Không có chủ trương sử dụng đất lúa làm sân golf hoặc sử dụng đất lúa làm xây dựng cơ bản.
Đánh giá, quy trình lúa gạo từ nông dân ra đến các nhà máy chế biến còn đi lòng vòng, phí trung gian lớn, Thủ tướng đề nghị các địa phương cần xử lý tốt các vấn đề cò lúa, thương lái; cơ cấu hợp lý hơn chi phí lãi vay ngân hàng trong thu mua, chế biến.
Thủ tướng đề nghị ngành hàng lúa gạo cần chú trọng phục vụ tốt hơn thị trường gần 100 triệu dân Việt Nam, tránh tình trạng xâm thực gạo tại thị trường trong nước.
Về vấn đề thể chế, Thủ tướng đề nghị các địa phương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo đuổi một chính sách an ninh lương thực linh hoạt, khôn ngoan. Các bộ liên quan sớm trình Chính phủ và báo cáo Quốc hội xem xét sửa đổi chính sách mở rộng hạn điền, trong đó, bồi thường thỏa đáng cho người dân trong thu hồi đất, khuyến khích đầu tư tư nhân vào nông nghiệp; mở rộng quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền này cho doanh nghiệp tư nhân; bãi bỏ quy định không cần thiết để thúc đẩy phát triển lúa gạo.
Thủ mong muốn sau hội nghị này, mở ra một chương mới cho ngành sản xuất lúa gạo của vùng và cả nước, tìm ra được một cách làm mới với năng suất, hiệu quả cao hơn, khắc phục tốt những hạn chế, bất cập thời gian qua.