Thế giới có thể đã ít phụ thuộc vào dầu hơn sau cú sốc năng lượng những năm 1970, nhưng cuộc xung đột Nga-Ukraine vẫn cho thấy nó vẫn có thể gây đổ vỡ nền kinh tế, làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách và châm ngòi cho các cuộc xung đột chính trị.
Năm 1973, cuộc chiến Yom Kippur dẫn đến lệnh cấm vận dầu mỏ của các quốc gia Arab đã làm chao đảo thị trường thế giới, đẩy lạm phát lên mức 2 con số. Khi ấy, dầu mỏ chiếm gần một nửa trong cơ cấu năng lượng toàn cầu. Hiện, tỉ lệ này đã giảm xuống chỉ còn 1/3.
Sự thay đổi này diễn ra khi các nước giàu đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, các nhà máy tăng hiệu suất và việc phát điện chuyển từ sử dụng dầu sang các nguồn tài nguyên khác như than đá và khí đốt tự nhiên.
Một nghiên cứu của Đại học Columbia công bố năm ngoái cho thấy, nếu trước đây cần tới một thùng dầu để đạt được mức tăng trưởng nhất định thì ngày nay chỉ cần chưa tới nửa thùng để có cùng kết quả như vậy.
Những năm gần đây, trong khi một số nhà phân tích suy đoán rằng nền kinh tế thế giới có thể gặp phải những cú sốc dầu mỏ trong tương lai, một số người khác tin rằng tình trạng phong toả trong hai năm qua bởi dịch Covid-19 là bằng chứng cho thấy nền kinh tế vẫn có thể vận hành với một mức tiêu thụ dầu thấp hơn đáng kể.
Nhưng nhu cầu tăng cao trở lại vào năm 2021 và giá dầu tăng vọt do xung đột Ukraine thêm một lần nữa làm nổi bật lên sự cần thiết để nền kinh tế toàn cầu ‘cai nghiện’ thói quen sử dụng dầu mỏ đã ăn sâu từ nhiều thập kỷ.
“Cần có sự đầu tư để giảm mối liên hệ giữa các hoạt động kinh tế và nhu cầu dầu mỏ”, theo ông Alan Gelder – Phó Chủ tịch về thị trường lọc dầu, hóa chất và dầu mỏ tại công ty tư vấn Wood Mackenzie.
Vị này cho rằng việc thay đổi nhu cầu dầu trong ngắn hạn là rất khó khăn do cần đến hàng nghìn tỉ USD đầu tư để thay thế các cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông và các thiết bị sử dụng sản phẩm từ dầu mỏ.
Gần nhất, giá dầu tăng 50% kể từ đầu năm đã dập tắt sự kỳ vọng được các ngân hàng trung ương trên thế giới ủng hộ vào năm ngoái, rằng lạm phát gây ra bởi các gói kích thích thời đại dịch chỉ là “nhất thời”.
Thay vào đó, 'cú sốc' giá cả chỉ làm rõ thêm quan điểm rằng dầu mỏ đã ‘thấm sâu’ vào hoạt động của nền kinh tế toàn cầu như thế nào.
Người Mỹ đang lái xe ít hơn và các hãng hàng không đang tính giá vé cao hơn. Từ các chất hóa dầu được sử dụng trong nhựa hoặc phân bón cây trồng đến nhiên liệu dùng để vận chuyển hàng hóa đi khắp thế giới, các sản phẩm chiết xuất từ dầu mỏ là nguyên nhân chính khiến người tiêu dùng đang phải trả giá cao hơn cho nhu cầu thiết yếu.
Giá dầu và lạm phát kỳ vọng (Nguồn: Reuters) |
Những tác động tới nền kinh tế
Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) ước tính rằng, cứ giá dầu tăng 10 USD/thùng sẽ làm giảm tăng trưởng GDP 0,1 điểm phần trăm và tăng lạm phát thêm 0,2 điểm phần trăm. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), nếu giá dầu tăng 10% (tính theo đồng EUR), thì lạm phát của khu vực này sẽ tăng từ 0,1 – 0,2 điểm phần trăm.
Các quốc gia nhập khẩu dầu ở châu Âu đang chạy đua để giảm giá nhiên liệu và các biện pháp hỗ trợ khác cho những người lái xe ô tô nhằm tránh đẩy sự giận dữ trở thành một cuộc phản đối rộng lớn hơn – như đã từng xảy ra với phong trào biểu tình “áo vàng” ở Pháp khi chính phủ quốc gia này muốn tăng giá nhiên liệu.
Tương tự, các quốc gia châu Á - khu vực không chỉ có nhu cầu dầu lớn nhất thế giới mà còn có tốc độ tăng trưởng ‘nóng’ nhất – cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Nhật Bản và Hàn Quốc đang là những quốc gia tăng trợ cấp để ghìm giá nhiên liệu.
Đối với Mỹ, quốc gia này ít bị ảnh hưởng hơn vì là một trong những nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Chủ tịch Fed Jerome Powell cho rằng quốc gia này hiện có khả năng chống chịu tốt hơn với cú sốc giá dầu so với những năm 1970. Nhưng điều đó không ngăn được ông Powell đưa ra những thông điệp mạnh mẽ về việc kiểm soát lạm phát.
'Cơn khát' dầu của châu Á
Phải mất tới 5 thập kỷ để giảm tỉ lệ dầu trong cơ cấu năng lượng toàn cầu từ 45% xuống 31%. Câu hỏi đặt ra là có thể giảm con số này xuống mức nào khi nhiều nền kinh tế cam kết đạt mục tiêu phát thải bằng 0 (Net-zero carbon economies).
Việc chuyển sang sử dụng xe điện được kỳ vọng sẽ giảm nhu cầu sử dụng dầu. Các phương tiện chở khách được cho là có nhu cầu sử dụng dầu lớn nhất, tiêu thụ 1/4 lượng dầu toàn cầu.
“Nhu cầu dầu mỏ của thế giới sẽ đạt đỉnh và giảm nhanh trong vòng vài năm tới, trong khi GDP sẽ tiếp tục tăng trưởng”, Sverre Alvik - Giám đốc chương trình chuyển đổi năng lượng tại công ty tư vấn năng lượng DNV – chia sẻ. Ông cũng tin rằng xe điện sẽ chiếm 50% doanh số bán xe trong 10 năm tới.
Tuy nhiên, đó chỉ là một mặt của câu chuyện.
Nhu cầu dầu vẫn đang gia tăng ở châu Á, cộng với thực tế rằng các hoạt động chủ chốt như vận tải biển, hàng không, vận tải hàng hóa vẫn đi sau trong lĩnh vực ô tô trong việc chuyển đổi sang các nguyên liệu thay thế. Điều này cũng đồng nghĩa rằng, các lĩnh vực có nhu cầu dầu mỏ vẫn rất rộng lớn và khó có thể thay đổi trong thời gian ngắn.
"Các dự báo của chúng tôi cho thấy rằng sự phụ thuộc vào dầu mỏ, đặc biệt nhập khẩu dầu, khó có thể biến mất nhanh chóng", các nhà phân tích của IEA kết luận trong một báo cáo năm 2019.
Những dự báo như vậy cho thấy rằng, ngay cả trong trường hợp khả quan nhất, việc thế giới chuyển từ dầu mỏ sang các nguồn nguyên liệu hoá thạch khác vẫn sẽ là thách thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách./.
Tham khảo Reuters