Cậu con trai Tú Anh đã không còn là đứa trẻ lên ba - “Tài sản thế chấp” cho mấy bà chủ chợ Nam Định mỗi khi mẹ Hằng lấy hàng đi bán qua ngày, mà nay đã là Doanh nhân tiêu biểu của Thái Bình.
“Bụi đường nhòa phủ nhiều đau đớn”
“Nói chú đừng cười chứ đến bây giờ chị vẫn không nghĩ mình lại có ngày hôm nay”- Bà Trần Thị Hằng (phường Hoàng Diệu, TP. Thái Bình) rót cho tôi một ly trà xanh nóng hổi. Chờ tôi uống xong, bà bảo: “Chú ra thăm nhà cửa, sân vườn để mừng cho chị đi”.
Tôi theo bà ra “Nguyệt vọng lầu”. Ngồi trên lầu nhìn bao quát toàn bộ khu biệt thự của bà Hằng. Ngôi nhà chính 3 tầng khang trang, khu nhà ngang xây theo kiểu cổ, ở góc phía bên kia vườn là bể bơi gia đình.
Trời Thái Bình lất phất mưa, lạnh buốt. Câu chuyện buồn đẫm nước mắt về tình duyên của bà Hằng nghe càng thêm tê tái.
Khi mà cuộc sống đã bớt khó khăn và bà Hằng đã làm được cái nhà ngói nhỏ, thì ông Chiền đưa mấy đứa con của ông với bà vợ “đồng nát” về bảo: “Ta mừng cho mẹ mày đã có nhà riêng, có của ăn của để. Mẹ mày nuôi giúp mấy đứa con cho ta với. Chúng nó không có ăn”.
Bà giận ông đến tím tái mặt mày, nhưng nhìn mấy đứa trẻ “bụng ỏng, đít beo” thì không cầm được lòng. Nuôi được một tuần thì mẹ, rồi chị gái bà chửi rủa bà không ra gì. “Chưa thấy ở đời có con đàn bà nào ngu dốt như mày”. Chị đành gửi lũ trẻ lại cho bố nó, nhưng hàng tuần vẫn gửi, khi thì thóc gạo, khi thì tiền bạc để chăm lo thêm cho các con của người chồng bội bạc.
Bà dùng hai lòng bàn tay nâng ly trà, nhấp một ngụm, thở dài, bà nói tiếp: “Chị có phải loại gái “đầu đường xó chợ” đâu em”. Không thuộc loại “sắc nước hương trời”, nhưng cũng chả thua kém ai. Là học sinh giỏi văn miền Bắc, có lần được nhà thơ Tố Hữu tiếp, đối thơ với ông ấy và còn được ông khen hay”.
Tại đây bà Hằng đã gặp, yêu và lấy ông Chiền. “Anh ấy đẹp trai, khéo ăn nói, nhưng mắc mỗi cái chứng đào hoa”- bà Hằng bảo thế. Khi đang mang bầu đứa con đầu lòng (sau bị sảy thai do xuống hầm trú ẩn tránh máy bay Mỹ) thì ông Chiền “phải lòng” một “cô văn công” ở Nghệ An.
Chuyện vở lỡ, anh chồng “cô văn công” bắn ông Chiền xuyên qua bắp đùi và đòi kiện, đuổi ông Chiền khỏi quân ngũ. Bà biết chuyện, từ Hà Tây (nay là Hà Nội), bụng mang, dạ chửa, vượt đèo lội suối mất cả tuần mới vào tới Con Cuông (nơi ông Chiền đóng quân) để “dàn xếp”. Rất may là ông Chiền, tuy bị kỷ luật, nhưng không bị xuất ngũ về quê.
Cho thêm nước sôi vào ấm trà, bà Hằng rót ra 2 ly. Bà đưa ly trà lên nhấp một ngụm, ngồi tư tự, mắt như đang nhìn vào khoảng không vô định. Bất chợt bà thở dài, rồi khe khẻ đọc: “Mỏi gối chồn chân ta lại về/ Hương xưa dấu cũ có là mê/ Bụi đường nhòa phủ nhiều đau đớn/ Sương gió thăng trầm lắm ủ ê...”. Bà Hằng bảo bà thích mấy câu trong bài “Vọng nguyệt lầu” của một tác giả mà bà không nhớ tên.
Tôi cứ lẩn thẩn nghĩ không hiểu có phải khi xây nên cái “Vọng nguyệt lầu” này để những đêm khuya buồn không ngủ được bà ra ngồi ngắm trăng, và ở đâu đó trong sâu thẳm bà vẫn xót xa với thân phận mình, với mối tình dang dở của anh chồng trăng hoa kia không. Nghe thật phũ phàng, xót xa khi bà Hằng đọc hai câu tiếp theo của bài “Vọng nguyệt lầu”: “Xa cách lòng đau người có thấu/ Biệt ly lệ nhói ai còn nghe”.
“Có sức người sỏi đá cũng thành cơm…”
Sau một tuần trà, bà Hằng bảo: “Chú ra đây chị chỉ cho chú cái này!”. Tôi đi theo bà. “Đấy, ngôi nhà lần đầu tiên chị xây. Chị vẫn giữ như là một kỷ niệm”- bà Hằng chỉ vào ngôi nhà. Ngôi nhà cũ giờ đây đứng nép mình ở một góc nhỏ của khu vườn, rêu phong đã phủ.
Thời gian đã làm cho nó cũ kỹ và trở nên lỗi thời và vô cũng nhỏ bé so với cơ ngơi đồ sộ bây giờ. Hơn 20 năm trước, lần đầu tiên gặp bà Hằng, tôi đã ngồi trong chính ngôi nhà này. Khi ấy, nó là một ký tích, là kết quả của hơn 20 năm vật vã, lăn lộn từ đáy của sự khốn cùng để vươn lên.
Đứng trước ngôi nhà cũ và câu chuyện như là cổ tích về cuộc đời Bà Hằng lại hiện về…
Cuối năm 1972 máy bay B52 của Mỹ đánh bom Hà Nội, Hà Tây. Bom rơi trúng Sở Tài chính, bà Hằng bị thương nặng: mất một mảng da đầu, thủng bụng, phải cắt gần một mét ruột bị nát. Tính mạng Trần Thị Hằng được cứu sống, nhưng sức khỏe thì giảm sút nghiêm trọng. Không đủ sức khỏe phục vụ cách mạng, bà được cho xuất ngũ.
Với thân hình đầy thương tật, nặng chừng 35 cân, bà Hằng ôm con về quê chồng ở Bắc Ninh. Một thời gian sau đó chồng bà cũng xuất ngũ. Cuộc sống khi ấy vô cùng khó khăn, thiếu thốn đủ bề. “Không bỏ được thói trăng hoa anh ấy bỏ chị để đi theo một người đàn bà khác đã có 2 đứa con riêng”- Bà Hằng kể. Chồng bỏ đi. Gia đình, họ hàng nhà chồng lạnh nhạt, ruồng bỏ, bà Hằng đau đớn ôm con thơ trở về Thái Bình, nơi đó còn có mẹ già và chị gái.
Cũng từ đây, cuộc mưu sinh của người đàn bà bị đẩy xuống tận cùng của sự đau khổ, đã vật lộn đầy dũng cảm để thoát khỏi cảnh cùng cực và đến nay đã trở thành một trong những người giàu có tiếng ở đất Thái Bình.
Không ngờ về lại quê nhà cuộc sống của mẹ con bà còn bi đát hơn. Mẹ ở với chị gái, thương con, thương cháu, nhưng già cả, chả có của nả gì nên không giúp gì được cho bà. Bà ra góc vườn trống dựng tạm căn lều mái rạ để nương thân.
Những đêm mưa gió, lều dột tứ tung, mặc áo mưa, ôm con, nước mắt lăn dài: “Túp lều nát rùng mình trong giá rét/ Chiếc nôi nghèo run rẩy giữa đêm giông/ Ai sẽ về chăm lo? Chẳng còn ai hết/ Tội nghiệp nỗi cô đơn trong đêm tối khóc thầm”- Trong nỗi tuyệt vọng, bà Hằng đã làm nên những vần thơ như vậy.
Khóc mãi cũng chả giải quyết được gì. Bà đưa con lên chợ Nam Định. Sáng sáng đi lấy hàng, không có tiền, bà đem cậu con trai 4 tuổi Tú Anh ra làm “tài sản thế chấp”, chiều về trả tiền hàng, “chuộc” lại con.
Có chút tiền bà đưa con trở lại quê nhà. Bà quyết định biến ao tù của mẹ lâu nay bỏ hoang thành ao nuôi cá. Thế là hàng ngày bà dầm mình dưới nước, móc bùn, đắp bờ. Sau một tháng trời cái ao đã ra đời, cá đã được thả. Tuy nhiên cái giá phải trả là vô cùng đắt.
Ngâm nước lâu ngày, chân bị lở loét. Các ngón tay bà Hằng bắt đầu sưng tấy lên, đen dần, lở loét và rụng từng đốt. Để tránh bị nhiễm trùng bà đã nung đỏ lưỡi dao, dí vào cho cháy thịt và băng lại từng ngón tay. Mỗi lần như vậy bà đau đớn và ngất xỉu đi. Sau một tuần bà đốt hết 10 ngón tay.
“Con mụ này bị hủi rồi. Cách ly nó đi không thì lây ra cả làng bây giờ!”- dân làng bảo nhau thế. Sợ lây bệnh cho cả làng, dân quân tới nhà xích tay bà đưa lên bệnh viện tỉnh. Ông bác sĩ già khám, bảo: “Không phải hủi, bệnh nghẽn mạch vành”, nhưng dân làng chả mấy ai tin.
Bà Hằng bảo: “Những tiếng xì xào, những cái nhìn tỏ vẻ ghê sợ, khinh bỉ của anh chị trong gia đình, dòng họ, rồi làng xóm như những chiếc kim châm vào tim gan tôi. Nó còn đau hơn cả nỗi đau về thể xác”.
Sức chịu đựng của bà rồi cũng đến giới hạn. Để lại mấy chữ dặn mẹ già: “Con chết, mẹ gửi Tú Anh vào trại tế bần” và nửa đêm đi ra cầu Bo nhảy xuống sông tự tử. Nhưng số bà vẫn chưa tận. Một cụ già đi ngang qua, nhìn thấy đã khuyên can chị và cho chị 1.000 đồng. Số tiền ấy về mua được một tạ thóc.
Quay về nhà, mặc cho người làng khinh miệt, mặc cho miệng tiếng thị phi, bà tiếp tục sống, tiếp tục thả cả, nuôi lợn, nuôi gà. Quyết tâm cháy bỏng của bà là xây cho hai mẹ con một ngôi nhà để không còn phải chịu cảnh mưa nắng. Thế là ngày ngày bà móc đất đóng gạch. Sau một năm trời bà cho ra lò một vạn tám gạch, đủ xây một ngôi nhà khang trang.
Có nhà, bà tiếp tục nuôi lợn, nuôi gà, rồi ba ba. Từ một chuồng nuôi tạm bợ, bà đã dựng lên một hệ thống liên hoàn gồm 10 chuồng. Mỗi năm bà xuất chuồng đến cả chục tấn lợn. Có lúc, đàn lợn của bà lên đến 200 con. Mỗi lần bán lợn, gà bà đều mua vàng bỏ vào tủ. Khi Tú Anh đã lớn thi đỗ đại học Bà phá tủ vàng được 25 cây….
Buổi sáng hôm ấy bà Hằng đã nhắc lại rất nhiều những khó khăn, cơ cực mà bà đã phải trải qua, như lần ốm thập tử nhất sinh, đã bị đưa xuống nhà xác, nhưng rồi vẫn sống. Rồi lần hàng trăm con ba ba, hàng vài chục con lợn lăn ra chết vì có kẻ nào đó “ghen ăn tức ở” dã tâm đánh thuốc sâu.
Rồi lần Tú Anh mở công ty, sau hai năm thì phá sản, tiêu tốn của bà mấy trăm triệu đồng. Rồi chuyện bà đưa con trai lên Quảng Ninh học lớp Giám đốc chuyên nghiệp, đưa con dâu lên Thái Nguyên học cao đẳng sư phạm. Hiện nay cả hai vợ chồng Tú Anh đều đã là những doanh nhân có tiếng của Thái Bình.
Khi kể chuyện chuân chuyên như vậy, bà Hằng bảo: “Chị thích nhất hai câu thơ của Hoàng Trung Thông: “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
Trời đã về trưa, bà Hằng đưa tôi trở lại “Nguyệt vọng lầu”. Nhìn người đàn bà nhỏ thó, đi liêu xiêu phía trước tôi chợt nghĩ, sức chịu đựng của con người quả thật khủng khiếp, sự vươn lên cũng thật phi thường.
Bà Hằng là điển hình của típ người biến “cái không thể thành cái có thể”, và câu thơ của Hoàng Trung Thông (mà bà bảo bà rất thích) “Có sức người là sỏi đá cũng thành cơm” đâu có là chuyện tào lao, mà là điều có thật, rất thật!