Năm 2012 một sự kiện lớn trong chiến lược hải dương của Trung Quốc đã hình thành, đó là việc thử nghiệm thành công tàu sân bay Liêu Ninh. Sự kiện này gây sự chú ý và bàn luận khắp thế giới. Cùng với việc phục sinh một tàu sân bay cũ của Liên Xô, Trung Quốc tăng cường tuyên bố chủ quyền của mình trên hầu hết Biển Đông, nhưng lực lượng tiên phong chủ lực nhằm thực hiện mục đích thống trị vùng nước này lại không nằm trong hải quân và hoàn toàn chẳng cần đến tàu sân bay Liêu Ninh.
Thời gian gần đây, Trung Quốc thực hiện một kế hoạch tham vọng và thâm sâu hơn nhiều so với các tàu chiến khổng lồ đang hiện diện trên Biển Đông. Kế hoạch thể hiện một nỗ lực giành giật quyền làm chủ trên những vùng nước và hải đảo tranh chấp – sử dụng tàu du lịch với hàng nghìn du khách, được chính quyền Trung Quốc cho phép thực hiện các chuyến du lịch trên các hòn đảo đang có tranh chấp với các nước láng giềng. Sử dụng tàu du lịch có tải trọng lớn và rất nhiều các loại tàu khác, Trung Quốc đang thực hiện mưu đồ khẳng định chủ quyền của mình tại những vùng tranh chấp trên Biển Đông.
Từ năm 1950, các bản đồ của Trung Quốc đưa ra 9 đoạn vạch dài dọc theo bờ biển Trung Quốc và tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á, từ đó đòi hỏi xác lập quyền độc chiếm Biển Đông của mình. Giải thích tính đúng đắn của đường 9 đoạn đó, người Trung Quốc đưa ra những luận chứng không đồng nhất, không có căn cứ lịch sử và hoàn toàn mâu thuẫn lẫn nhau, không dựa trên bất cứ một căn cứ pháp lý quốc tế nào.
Tàu sân bay Liêu Ninh. |
Những tuyên bố về đường hải giới chủ quyền đó vào thời điểm ấy không được công luận thế giới cho rằng là một điều nghiêm túc. Nhưng đến năm 2009, cùng với việc biểu dương tiềm lực quân sự hùng hậu của mình, Trung Quốc đệ trình Liên Hợp quốc bản đồ 'lưỡi bò' ngang ngược nhận sở hữu tất cả những khu vực tranh chấp với các nước láng giềng mà Trung Quốc khẳng định là “chủ quyền không thể tranh cãi”.
Hàng loạt sự cố xảy ra trên Biển Đông, với sự tham gia của 'đội quân' hùng hậu gồm tàu cá trọng tải lớn, tàu ngư chính và hải cảnh, cùng với những lời tuyên bố quyết liệt và mang tính khiêu khích từ tháng 7.2010 đến nay. Sau hàng loạt va chạm với Nhật Bản, Philipines và các nước khác đã dẫn đến việc ngoại trưởng Mỹ phải kêu gọi giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình.
Trung Quốc đáp trả bằng cách liên tiếp gia tăng các hoạt động của các cơ quan quản lý biển cấp nhà nước và tung ra nhiều thủ đoạn khác. Họ đã liên kết phối hợp cơ quan cảnh sát biển thuộc Bộ công an và các cơ quan quản lý địa phương, trước hết là cơ quan do họ dựng lên một cơ quan hành chính (thành phố Tam Sa phi pháp) và những cơ quan quản lý bờ biển gần với đảo Hải Nam, đồng thời người Trung Quốc tăng cường phát triển lực lượng hải quân và không quân hải quân làm phương tiện răn đe và sẵn sàng cho cuộc xung đột không chủ ý.
Chiến thuật 'biển tàu cá'
Hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc lộ diện lôi cuốn được sự chú ý của tất cả thế giới. Người ta nghĩ đến những tập đoàn không quân hải quân tấn công sẽ xuất hiện trên Biển Đông và Ấn Độ Dương, đến những cuộc chiến tranh chớp nhoáng và tổng lực. Nhưng trong tương lai gần, tàu sân bay Liêu Ninh sẽ chỉ làm nhiệm vụ đơn thuần là phục vụ huấn luyện không quân hải quân, chứ không phải là một đơn vị chiến đấu trong một lực lượng hải quân viễn chinh. Tuy nhiên lực lượng cảnh sát biển với rất nhiều phương án sử dụng và thể hiện quyền lực trên biển lại là một vấn đề hoàn toàn khác với những nguy cơ lớn hơn rất nhiều.
Sự phát triển của lực lượng này được phóng viên tờ báo The Los Angeles Times khẳng định. Ví dụ, từ năm 2000 lực lượng quân sự Trung Quốc đã chuyển bàn giao cho các cơ quan hành pháp biển 11 tàu quân sự nhằm tăng cường năng lực giám sát. Bản thân lực lượng Hải giám Trung Quốc cũng tự đóng 13 chiếc và sẽ tăng cường lên đến 36 chiếc đóng mới.
Lực lượng ngư chính của Trung Quốc cũng tiếp nhận các tàu quân sự, có sân đậu cho máy bay trực thăng. Các tàu ngư chính, hải giám đã nhanh chóng được đưa vào sử dụng và có mặt liên tục trên Biển Đông. Lực lượng hải quân hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ xác định cho đến nay tính từ năm 2008, số lượng các tàu tuần biển của cảnh sát biển Trung Quốc đã tăng gấp 3 lần.
Các tàu đánh cá Trung Quốc tại đảo Hải Nam, so với người trên thuyền thấy rõ được các tàu cá của Trung Quốc có lượng giãn nước khá lớn. |
Chuyên gia Hải quân Mỹ, ông James Funnell đã viết trong một bài đăng trên tờ Times đã nhận xét: Các tàu tuần biển Trung Quốc không có mục đích gì khác ngoài mục đích uy hiếp, đe dọa các nước láng giềng trên Biển Đông, buộc họ phải tuân thủ và phục tùng những yêu sách ngang ngược, phi lý của mình”. Họ sẵn sàng với những hành động cực đoan như cắt cáp tàu thăm dò hải dương của tàu khoa học Việt Nam, tấn công đe dọa các tàu đánh cá có lượng giãn nước nhỏ của các nước láng giềng, phối hợp cùng với các tàu hải cảnh tấn công các nhóm tàu dân sự và tàu cảnh sát biển nước khác (thực tế đã xảy ra khi hạm đội các loại tàu đội lốt lên tới cả trăm chiếc của Trung Quốc tham gia bảo vệ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa của Việt Nam năm 2014).
Các tàu cá Trung Quốc có lượng giãn nước lớn cũng sẵn sàng tham gia chống lại các lực lượng cảnh sát biển của các nước láng giềng, đơn cử như với Nhật Bản ở quần đảo Senkaku và với Hàn Quốc, họ cũng không ngại ngần truy đuổi và tấn công cả các tàu quân sự Mỹ.
Khi gặp phải sự phản kích và ngăn chặn từ phía bên kia, họ yêu cầu các tàu hải giám, ngư chính hỗ trợ can thiệp. Các tàu của Trung Quốc dù không có sự hiện diện của vũ khí quân sự, nhưng họ được trang bị vòi rồng công suất lớn và các móc sắt. Họ làm cho những ngư dân của các nước láng giềng có cảm giác bất lực và sợ hãi.
Tính đến thời điểm này, chiến lược “Hồng kỳ rực Biển Đông” và chiến thuật “lấy biển vây bờ” cùng những giải pháp khác phi quân sự của Trung Quốc đã mang lại hiệu quả nhất định. Các ngư thuyền Trung Quốc, với số lượng áp đảo, được sự hỗ trợ của chính quyền đã gây rất nhiều khó khăn và lúng túng cho các nước láng giềng trên biển. Điển hình như vụ bãi cạn Cỏ Mây, bãi đá ngầm Scarborough.
Các cơ quan nghiên cứu biển các nước khu vực Đông Nam Á cũng ghi nhận hiện trạng các ngư thuyền của Trung Quốc đang nỗ lực vét cạn nguồn tài nguyên thủy sản trên vùng nước của các nước láng giềng trên Biển Đông.
Sự phát triển của tư duy “bất chiến tự nhiên thành” bắt nguồn từ binh pháp Tôn Tử, sau đó là tư tưởng chiến tranh nhân dân “lấy nông thôn bao vây thành thị” trong cuộc chiến chống Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch.
Nay Trung Quốc lại đem chiến thuật sử dụng số đông nhân sự của ngành ngư nghiệp Trung Quốc, những người có thể lực tốt, được huấn luyện, được hỗ trợ của chính quyền, bao gồm cả năng lực tài chính, được tuyên truyền kỹ lưỡng và họ hoàn toàn tin tưởng không gặp phải sự ngăn chặn đủ mạnh nào trên biển Đông.
"Trung Quốc sử dụng nguồn lực của năm cơ quan an ninh hàng hải để thực thi tuyên bố chủquyền của họ tại các vùng biển tranh chấp bằng cách hộ tống các tàu cá, thực thi lệnh cấm đánh bắt theo mùa đối với các tàu nước ngoài”, nghị sĩ Mỹ Daniel Slane nói trong một phiên điều trần hồi tháng 1.2013 "Các đội tàu dân sự cho phép Bắc Kinh duy trì sự hiện diện tại các vùng biển tranh chấp mà không cần đến sự hiện diện hải quân”.
Tính đến năm 2012, trên vùng nước biển Đông có 23.000 tàu cá này (gồm 14.000 tàu của Quảng Đông và 9.000 tàu của Hải Nam. Có thể nói, đến nay số lượng này đông hơn rất nhiều, đây là lực lượng rất mạnh của Trung Quốc sẽ tham gia xâm lấn vùng tranh chấp.
Trước chiến lược này, các đồng minh của Mỹ cũng như các nước đang có tranh chấp trên biển với Trung Quốc gặp phải khó khăn rất lớn. Do chính phủ Mỹ đã tuyên bố ”không dùng vũ lực quân sự đối với ngư dân”, vì vậy các đồng minh của Mỹ không thể sử dụng lực lượng vũ trang và khí tài quân sự để ngăn chặn hoặc đối phó với chiến thuật 'biển tàu cá'. Một vài tàu cảnh sát biển cỡ nhỏ khó mà đương cự được đội quân hàng trăm ngư thuyền. Và đằng sau là sự hậu thuẫn của các tàu hải cảnh, ngư chính có nguồn gốc từ các tàu quân sự.
Từ lâu, Mỹ đã tuyên bố không tham gia vào bất cứ bên nào trong các tranh chấp trên biển, và kiên quyết yêu cầu thực hiện hai nguyên tắc chủ yếu trong ứng xử ở khu vực biển Đông: Một là “tự do hàng hải” hai là “giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng phương pháp hòa bình”. Đây chính là điểm yếu trong chính sách đối ngoại chính trị của Mỹ trên Biển Đông.
Với số lượng vượt trội cả về tàu đánh cá có trọng tải lớn và các tàu hải cảnh, ngư chính thực chất là các tàu quân sự hoán cải, Trung Quốc dường như cho rằng đủ sức mạnh và sự tự tin để thống trị Biển Đông. Được sự hậu thuẫn lớn, các ngư dân Trung Quốc thoải mái vơ vét tài nguyên biển và không quá lo lắng đến sự ngăn chặn và trừng phạt của các nước láng giềng khi họ xâm phạm chủ quyền của nước khác hoặc mặc sức ào ạt đổ xuống các vùng nước tranh chấp nhằm thể hiện quyền lực nước lớn. Cho đến hiện nay, có vẻ như Trung Quốc vẫn chơi con bài “Vạn lý trường chinh ” trên Biển Đông với áp lực từ sức mạnh dân sự ngày càng lớn.
Hai hướng tiến công
Tham vọng độc chiếm và quản lý Biển Đông của Trung Quốc bao hàm nhiều yếu tố, trong đó yếu tố kinh tế đóng vai trò quan trọng ở mức sống còn. Những năm 1990, chỉ có Mỹ và Nhật Bản là những đối tác kinh tế quan trọng của khu vực Đông nam Á. Nhưng hiện nay Trung Quốc đang là đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của khu vực, quy mô phát triển kinh tế của Trung Quốc đã đi vào cấp độ đầu tư, vượt xa khỏi lĩnh vực thương mại xuất nhập khẩu, dịch vụ và tài chính. Trung Quốc đã ký kết rất nhiều các thỏa thuận với các nước trong khu vực, bao gồm phát triển hạ tầng, kết nối Đông Nam Á với Trung Quốc.
Các công ty Trung Quốc xây dựng các tuyến đường giao thông sắt bộ, đường thủy và mạng lưới điện năng cấp quốc gia, các hải cảng kinh tế xuất nhập khẩu, kết nối các nước Đông Nam Á với hệ thống giao thông Trung Quốc vào một siêu hệ thống kinh tế thương mại khổng lồ.
Không cần phải có chỉ số IQ quá cao để hiểu, các liên hệ kinh tế và các mối quan hệ giao thương có thể được sử dụng như những đòn bẩy mang tính chiến lược trong các chính sách gây áp lực đối ngoại.
Việc Trung Quốc đưa tàu du lịch vào vùng nước tranh chấp đã làm tăng thêm một vấn đề nghiêm trọng đối với khu vực Biển Đông. Tất nhiên, các tàu cảnh sát biển, tàu quân sự của các nước láng giềng không thể dùng vũ lực đối với tàu du lịch, ngay cả khi họ cho rằng tàu du lịch đang xâm phạm vùng nước chủ quyền của họ. Từ những chuyến du lịch gần, sẽ có nhiều tàu hơn nữa với những chuyến du lịch xa hơn nữa. Sẽ không đơn thuần chỉ là người Trung Quốc đi du lịch, mà còn có cả những người nước ngoài. Ở các khu vực tranh chấp, vấn đề đã trở nên vô cùng nghiêm trọng.
Có thể suy đoán rằng, quyết định đưa lực lượng thứ 3 (lực lượng dân sự) vào cuộc chiến giành quyền thống trị Biển Đông là một nước cờ quyết liệt, thực hiện ý đồ chiến lược thực hiện đường 9 đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông. Tín hiệu nguy hiểm đã lan truyền trong khu vực châu Á, đặc biệt đối với các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.
Tình nình nóng bỏng khi Mỹ bắt đầu tăng cường lực lượng quân sự trên vùng nước biển Đông, bắt đầu với những hoạt động quân sự ở Philiphines. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng một phần lực lượng quân đội Mỹ sẽ được điều chuyển tới châu Á, lực lượng này sẽ nằm ngoài kế hoạch cắt giảm ngân sách quân sự. Chính phủ một số nước Đông Nam Á đã quyết định tăng cường hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực quốc phòng.
Nhưng từ sau nhiệm kỳ của nữ Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton, dường như Mỹ cũng phần nào hành động chậm chạp trong các hoạt động phối hợp với các đồng minh châu Á, nguyên nhân có thể chính bản thân Mỹ cũng có mối quan hệ khá đặc thù và đậm màu sắc lợi nhuận trong nhiều vấn đề quan hệ với Trung Quốc.
Nhìn từ góc độ kinh tế chính trị, có thể nhận rõ tư duy chiến lược của Trung Quốc như sau. Trên Biển Đông cùng tiến hành song song hai hướng tiến công chủ lực: hướng thứ nhất là ngư thuyền dân sự kết hợp du lịch biển đảo khằng định chủ quyền; hướng thứ hai là lực lượng chấp pháp trên biển như các đội tàu hải cảnh, ngư chính. Đứng sau hai lực lượng này là lực lượng hải quân hùng hậu của Trung Quốc. Hai lực lượng này trong giai đoạn từ cuối năm 2012 đến nửa đầu năm 2015 đã hoạt động hết sức tích cực trong tranh chấp biển Đông, sự gia tăng các hoạt động diễn tập trên Biển Đông, Biển Hoa Đông đã đẩy các nước xung quanh vào tình huống nghi ngờ và tìm cách đối phó bằng việc tăng cường vũ trang và lo lắng trước nguy cơ "chiến tranh không chủ ý".
Trung Quốc đang từng bước thực hiện tham vọng thống trị các vùng nước đang tranh chấp với nhiều chiến thuật phức tạp khác nhau.
Trung Quốc xây dựng một đội quân gồm các tàu hải giám, ngư chính hùng hậu tiên phong trong tranh chấp chủ quyền trên biển. |
Dường như tư duy chiến lược “Hồng kỳ rực biển Đông” và “bất chiến tự nhiên thành” với ý đồ kéo dài thời gian tranh chấp, lấy ngư thuyền và chấp pháp trên biển làm lực lượng chủ chốt từng bước lấn chiếm khu vực, với dân số đông, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và lực lượng quân sự hùng hậu, sẵn sàng cứng rắn khi cần thiết, con cháu của Tôn Tử tin tưởng vào thắng lợi sau một vài thập niên nữa.
Các chuyên gia Nga nhận định chính tư duy “Quần chúng đông đảo, kinh tế cường thịnh, quân sự hùng mạnh” của một siêu cường đang trỗi dậy vẫn có một điểm yếu chết người: Lịch sử chứng minh Trung Quốc chỉ giỏi trong các cuộc nội chiến kiểu thời Xuân thu Chiến quốc chứ không có khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh bên ngoài, nhất là chiến tranh trên biển. Và sẽ cực kỳ nguy hiểm hơn nếu cuộc chiến tranh trên biển kéo dài.
Theo giới chính trị - quân sự Nga, hiện nay Philippines dường như đang bị Trung Quốc lấn sân, gây áp lực dữ dội nhất và có nguy cơ mất đi các bãi cạn. Đương nhiên với sức mạnh quân sự còn hạn chế, Philiphines không có hy vọng giành phần thắng trong cuộc hải chiến nếu nó xảy ra.
Nhưng trong trường hợp nổ ra chiến sự, chỉ cần các chiến hạm Trung Quốc đánh chìm một tàu Philiphines cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế của Trung Quốc cũng chìm xuống biển rất nhanh. Chính vì vậy Bắc Kinh phản ứng quyết liệt với một liên minh Mỹ - Nhật - Philiphines đang từng bước hình thành và sẽ tiếp tục tăng cường các tàu quân sự đến vùng nước tranh chấp với Philiphines nhằm hỗ trợ cho lực lượng tàu cá đánh chiếm chủ quyền và ngăn chặn một cuộc xung đột vũ trang tiềm năng bằng các hành động đe dọa chiến tranh.
Xung đột quân sự sẽ dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang tốc độ cao đến chóng mặt của khu vực châu Á – Thái Bình Dương khiến nền kinh tế Trung Quốc cũng không đủ sức chịu đựng nổi. Khu vực Biển Đông có thể sẽ bị phong tỏa cho một cuộc chiến dài ngày. Các đoàn ngư thuyền, du lịch Trung Quốc phải đối mặt với nhiều nguy cơ bài Hoa, các đối tác kinh tế của Trung Quốc sẽ đồng loạt ngoảnh mặt làm ngơ. Châu Âu sẽ có những quyết định khắc nghiệt với các hợp đồng kinh tế Trung Quốc. Và cuối cùng, bộ Tài chính Mỹ với phố Wall sẽ buộc phải vĩnh biệt những giao thương tiền tỷ trên đại lục. Đó thật sự là thảm họa với hệ thống kinh tế - chính trị Trung Quốc hiện nay.
Lo lắng hàng đầu của Trung Quốc hiện nay là việc các nước Đông Nam Á gia tăng sức mạnh quân sự của mình, đồng thời phát triển các hải đoàn ngư nghiệp có số lượng đông đảo, các tàu đánh cá có lượng giãn nước lớn, có khả năng khai thác biển dài ngày và được sự ủng hộ về mọi mặt của các chính phủ trong khối ASEAN. Các lực lượng cảnh sát, tuần biển các nước thể hiện sự cứng rắn trên Biển Đông và sẵn sàng đáp trả những hành động khiêu khích bằng các biện pháp quân sự. Đây là điều mà Trung Quốc không trông đợi.
Trên các quan điểm về quân sự - chính trị đối ngoại, khác hẳn với Mỹ ở thời điểm này Trung Quốc không mong chờ chiến tranh và cũng chưa sẵn sàng cho một cuộc đối đầu quân sự. Những hành động trong vùng nước Senkaku đã khẳng định một điều: Trung Quốc có thể cố gắng đe dọa sử dụng biện pháp cứng rắn như các tướng lĩnh diều hâu của họ vẫn luôn đánh võ mồm, nhưng cân đối về lợi ích và nguy cơ (người Trung Hoa tự xưng là bậc thầy về lý luận thực dụng). Các chuyên gia chính trị-quân sự Nga nhận định trong giai đoạn từ 4 -5 năm nữa Trung Quốc không có khả năng tiến hành chiến tranh lớn và xung đột vũ trang khu vực mà chỉ có thể sử dụng lực lượng tuần cảnh mạnh với lực lượng ngư dân, du lịch, ngư chính, hải cảnh làm chủ công để lấn chiếm, tranh đoạt.
Giới phân tích Nga cho rằng tình hình những vùng nước thuộc Biển Đông không thể dự đoán trước và còn xa mới đạt được sự ổn định khu vực. Trung Quốc vẫn quyết liệt trong những đòi hỏi vô lý và thậm chí ngang ngược về chủ quyền của mình, mặc dù họ không hề có những căn cứ thuyết phục về vấn đề chủ quyền trong lĩnh vực luật pháp quốc tế về biển. Theo báo chí Nga, Trung Quốc hoàn toàn không có những bằng chứng lịch sử về kiểm soát những khu vực tranh chấp, họ đã tự dựng lên, tự tuyên truyền đến mức hằn sâu vào suy nghĩ của người Trung Quốc. Bất chấp những khoảng trống và tính phi lý trong yêu sách của mình, Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển các tư duy chiến thuật và đưa ra những thách thức mang tính chiến lược đối với các nước trong khu vực và với siêu cường Mỹ.
TTB