Trong các năm 2007 - 2008, Bộ Quốc phòng giao cho Tổng cục II chủ trì phối hợp với một số đơn vị thực hiện Đề án cấp Nhà nước KĐ-07, nhằm vạch trần tội ác của Khmer Đỏ đối với nhân dân Campuchia và nhân dân Việt Nam; khẳng định công lao to lớn của Việt Nam trong việc giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, xây dựng và phát triển đất nước; nêu những bài học lịch sử và đề xuất một số giải pháp chiến lược.
Trong khuôn khổ Đề án, bộ phim tài liệu 6 tập “Những năm tháng máu và hoa” được xây dựng và công chiếu rộng rãi trên Truyền hình Trung ương, Truyền hình một số tỉnh, thành và Truyền hình một số nước trong khu vực trong và sau dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng chế độ diệt chủng (tháng 1/2009).
Người viết bài này may mắn được tham gia xây dựng bộ phim với vai trò đồng tác giả kịch bản và đạo diễn.
Trong quá trình làm việc, đoàn làm phim đã tham khảo hàng nghìn tư liệu văn bản và tư liệu hình trong, ngoài nước; thực hiện hàng chục chuyến đi, tổ chức quay hàng nghìn mét phim tư liệu ở các tỉnh biên giới Việt Nam – Campuchia và trên nước bạn Campuchia; tiến hành hàng chục cuộc phỏng vấn các nhân chứng lịch sử, các sĩ quan, tướng lĩnh Quân đội và ãnh đạo Đảng, Nhà nước hai nước Việt Nam, Campuchia.
Một trong những ấn tượng mạnh mẽ nhất đối với anh em trong Đoàn làm phim là cuộc phỏng vấn Phó Chủ tịch (nay là Chủ tịch) Đảng Nhân dân Campuchia, Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Samdech Techo Hun Sen tại tư dinh của ông ở thành phố Takhmao, tỉnh Kandal, cách Thủ đô Phnom Penh 10km về phía Nam.
Thủ tướng Campuchia Hun Sen viếng thăm Khu di tích Đoàn 125 tại xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai (ảnh chụp năm 2016 - VGP).
|
Lần đầu tiên tiếp xúc trực tiếp với một nguyên thủ quốc gia, nên đa số anh em trong đoàn đều tỏ ra lo lắng, mặc dù mỗi người đều thuộc lòng phần việc của mình và mặc dù được sự đồng ý của chỉ huy Lữ đoàn 70 bảo vệ Thủ tướng Hun Sen, đoàn đã có mặt sớm 30 phút để “bày binh bố trận” và để đỡ hồi hộp.
Vừa bước vào phòng khách, Thủ tướng Hun Sen đi bắt tay từng người trong đoàn Việt Nam, các quan chức, nhân viên, phóng viên Campuchia và ngỏ ý xin lỗi vì ông đến trễ 10 phút do cuộc họp do ông chủ trì trước đó kéo dài hơn kế hoạch.
Tác phong gần gũi của người đứng đầu Chính phủ Campuchia làm chúng tôi cảm thấy bớt lo lắng và căng thẳng để tự tin bắt tay vào công việc. Sau này, một cán bộ Văn phòng Thủ tướng cho biết, ông Hun Sen luôn có tác phong thân thiện với các đoàn Việt Nam.
Đồng chí trưởng đoàn phát biểu, chúc sức khỏe Hun Sen và nêu mục đích, yêu cầu của đoàn làm phim. Ông Hun Sen chăm chú lắng nghe qua người phiên dịch, sau đó nói:
- Tôi đề nghị thế này, tôi sẽ trả lời cùng lúc cả 3 câu hỏi để về nhà, các đồng chí dễ xử lí.
Tiếp đó, Hun Sen “độc thoại” một mạch khoảng 30 phút, sau đó bất ngờ nói bằng tiếng Việt:
- Tôi đã trả lời phỏng vấn đúng như kịch bản của các đồng chí. Bây giờ, tôi sẽ nói thêm bằng tiếng Việt Nam để các đồng chí hiểu rõ vấn đề.
Cần phải nói rằng, ông Hun Sen nói một thứ tiếng Việt dĩ nhiên là mang âm hưởng của người nước ngoài, nhưng cực kỳ hấp dẫn và quan trọng nhất, khúc triết, dễ hiểu đến mức sau này chúng tôi dựa chủ yếu vào “phiên bản” tiếng Việt này để dựng phim.
Đơn cử, trong khi anh em còn lúng túng trong việc diễn đạt bản chất của chế độ Pol Pot thì Thủ tướng Hun Sen đưa ra “định nghĩa”: “Từ đầu đến cuối, Pol Pot và đồng bọn đứng trên lập trường của chủ nghĩa tả khuynh cực đoan, chủ nghĩa quá khích và hoàn toàn đi theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Mọi đường lối, chính sách của chúng đều là những điều quái đản và man rợ, đi ngược lại bản chất nhân văn cao cả của con người, trái ngược với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Campuchia”.
Không chịu được sự kìm kẹp, khủng bố dã man của tập đoàn Pol Pot, hàng chục vạn người dân Campuchia trong đó có nhiều chiến sỹ cách mạng chân chính đã tìm đường chạy sang Việt Nam.
Ngày 20/6/1977, ông Hun Sen – lúc ấy là Trung đoàn phó quân Khmer Đỏ cũng chạy sang vùng Lộc Ninh, Bình Phước của Việt Nam và đề nghị giúp đỡ giải phóng nhân dân Campuchia. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 12/5/1978, tại căn cứ Long Giao (Đồng Nai), đơn vị đầu tiên của LLVT Đoàn kết Campuchia được thành lập, do ông Hun Sen chỉ huy.
Những ngày sau đó, số đơn vị và đội tuyên truyền của LLVT Đoàn kết Campuchia đã tăng lên nhanh chóng.
Ông Hun Sen nhớ lại: “Chúng tôi lúc đó chủ trương xây dựng lực lượng, một bộ phận ở dọc biên giới Việt Nam, một bộ phận bên trong lãnh thổ Việt Nam. Tôi tính toán có khi phải cần 3-5 năm để đánh đổ chế độ Pol Pot. Nhưng tình hình khẩn trương lắm rồi…”.
Ngày 30/11/1978, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực 2 (Thủ Đức, TP. HCM), Mặt trận Đoàn kết dân tộc Cứu nước Campuchia do ông Heng Samrin làm Chủ tịch được thành lập.
Ngày 2/12/1978, tại một cánh rừng trên đất Bạn, Mặt trận chính thức ra mắt.
Ngày 23/12/1978, khi quân Khmer Đỏ sử dụng một lực lượng lớn hòng đánh chiếm thị xã Tây Ninh, quân đội ta cùng LLVT Cách mạng Campuchia đã phản công, đồng thời tiến công trên tất cả các hướng.
Ngày 7/1/1979, giải phóng Thủ đô Phnom Penh và sau 25 ngày sau đánh tan 23 sư đoàn Pol Pot, giải phóng tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên cả nước Campuchia, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Ông Hun Sen trầm ngâm: “Nhưng nếu đánh đổ Pol Pot rồi mà quân đội Việt Nam rút về nước ngay thì chúng ta không có được thành tựu như ngày hôm nay, vì chế độ diệt chủng Pol Pot được thế lực phản động bên ngoài hậu thuẫn có tham vọng quay lại cầm quyền trong khi chính quyền, quân đội nhân dân Campuchia còn non trẻ, không có đủ lực lượng ngăn chặn. Do đó, chúng tôi yêu cầu Quân đội Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia để giúp ngăn chặn chế độ diệt chủng Pol Pot quay trở lại”.
Mười năm trên đất bạn (1979-1989), người chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam đã trở thành người con thân thiết đối với mọi gia đình Campuchia, được nhân dân Campuchia yêu mến, tin cậy gọi là “Bộ đội nhà Phật”. Tuổi trẻ của họ qua đi trong những trận đánh để giành sự bình yên cho mỗi gia đình, mỗi bản làng, phum sóc.
... Người trợ lí bước đến nói nhỏ vào tai Hun Sen. Ông đưa tay nhìn đồng hồ - buổi làm việc với đoàn Việt Nam đã quá 1 tiếng so với dự kiến. Song, dường như Samdech vẫn chưa hết xúc động: “Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn Đảng, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Việt Nam anh em đã có đóng góp hết sức to lớn để giúp nhân dân, đất nước Campuchia chúng tôi được hồi sinh...
Tôi xin gửi đến các ông bố, bà mẹ, bác trai, bác gái, chú, thím, các anh, các chị, các em trai, em gái, các cháu có bố, mẹ đã tham gia chiến đấu giải phóng nhân dân Campuchia và ngăn chặn sự quay trở lại của chế độ diệt chủng Pol Pot... Nay, người còn sống, người hi sinh, người bị thương, chúng tôi đều ghi nhớ công ơn họ; sự hi sinh mất mát này đã đóng góp cho công cuộc hồi sinh của nhân dân Campuchia”.
Hơn 40 mươi năm qua là những năm tháng kiểm nghiệm sự bền vững của tình cảm láng giềng, tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia; minh chứng cho tấm lòng trong sáng của Việt Nam đối với Campuchia.
Đã hơn 40 năm, song nỗi nhớ và niềm thương về những đồng chí, đồng đội đã anh dũng ngã xuống dọc các nẻo đường chiến trận trên đất nước Chùa Tháp năm xưa vẫn luôn cháy bỏng trong tâm trí chúng ta.
Với chúng ta và với Hun Sen, họ vẫn sống. Họ chỉ rong ruổi đâu đó trên đại ngàn Pai Lin, Tà Tum; trong những rừng khộp, rừng me An Long-veng, Tà Sanh, Ô Xa-mách.. Để chứng kiến sự diệu kỳ từ đống tro tàn, nhân dân Campuchia đã thực hiện thắng lợi công cuộc Hồi sinh, đưa đất nước bước vào một thời kì phát triển mới. Để phù hộ cho quan hệ lâu đời giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia mãi đậm đà thủy chung, gắn bó.