Từ chiến thuật “cắt lát sa-la-mi” đến chiến lược bá quyền nước lớn
- Ông đã phân tích chi tiết về cách mà Trung Quốc “giành chiến thắng mà không cần phải thực sự chiến đấu” trong cuộc xung đột lần thứ ba ở Đông Dương. Ông cũng đã đề cập đến việc Bắc Kinh áp dụng cách thức tương tự về sau để giành lợi thế trong tranh chấp ở Biển Đông. Ông có thể nói rõ hơn không?
Giáo sư Nayan Chanda: Cách của Trung Quốc là luôn tỏ ra mình sẵn sàng cho chiến tranh, và bằng cách đó, gây sức ép lên các đối thủ, nhờ thế không cần phải thực sự bước vào cuộc chiến.
Ở Biển Đông, năm 1974, nhân việc quân đội của thể chế Việt Nam cộng hòa đang thất thủ, Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Khi đó, Mỹ làm ngơ không can thiệp trước lời cầu viện của đồng minh Việt Nam cộng hòa.
Từ năm 1974 trở đi, Trung Quốc hầu như không có hoạt động gì ở Biển Đông, cho đến năm 1988 khi tàu Trung Quốc đổ bộ lên đảo Gạc Ma, nổ súng giết chết 64 người lính Việt Nam đang canh giữ đảo này.
Đảo Gạc Ma hiện đã được Trung Quốc bồi đắp, sau khi sát hại 64 chiến sỹ Hải quân Việt Nam năm 1988. Ảnh: GVT
|
Ngay sau đó, năm 1989, Trung Quốc bị quốc tế cô lập bởi vụ thảm sát Thiên An Môn. Do đó, Bắc Kinh vô cùng cẩn trọng không gây ra hành động gì để thu hút sự chú ý. Vì vậy, từ năm 1988 đến 1994, Trung Quốc khá là yên lặng ở Biển Đông.
Năm 1991, hiệp ước hòa bình về Campuchia được ký kết. Điều đầu tiên mà Trung Quốc làm là năm 1992 họ thông qua một đạo luật, tuyên bố toàn bộ Biển Đông, bao gồm vùng nước và các đảo là thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình. Đó có thể coi là hành động ngông cuồng đầu tiên của Bắc Kinh sau cuộc chiến tranh ở Campuchia.
Kể từ đó, toàn bộ các bản đồ của họ đều đánh dấu Biển Đông bao trọn trong đường 9 đoạn. Như vậy, một lần nữa, đây không phải là hành động gây chiến mà là động thái tuyên bố chuẩn bị cho xung đột.
Giữa năm 1994, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) cho xây dựng một hệ thống radar cảnh báo sớm ở bãi Chữ Thập và âm thầm cho xây dựng một số công trình trên dải đá ngầm Vành Khăn mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Philippines không hề biết gì về việc này cho đến tháng 2 năm 1995, một tàu đánh cá của nước này bị Trung Quốc bắt và giam giữ vài ngày trên đảo.
Tranh chấp Trung - Phil quanh bãi đá Vành Khăn trở nên gay gắt mãi cho đến tháng 8 năm 1995, khi Bắc Kinh và ASEAN đồng ý ký kết một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Trong suốt 10 năm sau đó, Biển Đông tương đối yên tĩnh.
Đảo Cô Lin của Việt Nam hiện nay, đối diện đảo Gạc Ma. Ảnh: GVT.
|
Như vậy, có thể thấy một chiến thuật nhất quán trong cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông, đó là họ sẽ làm một việc gì đó, rồi giữ yên lặng một thời gian, quan sát xem phản ứng của thế giới như thế nào, và rồi leo thang hành động khi nhận thấy một cơ hội nào đó xuất hiện.
Cũng cần nhắc lại, rằng tranh chấp ở Vành Khăn xảy ra sau khi Mỹ rút lui khỏi hai căn cứ quân sự đồn trú ở Subic và Clark thuộc Philippines cuối năm 1992. Bắc Kinh đã tận dụng tối đa “khoảng trống quyền lực” ở khu vực sau khi Mỹ rút lui và Liên Xô tan rã, để xây dựng và mở rộng ảnh hưởng của mình.
Phải thẳng thắn nhìn nhận, rằng chiến thuật “cắt lát sa-la-mi” mà Trung Quốc áp dụng ở Biển Đông đã có hiệu quả.
- Ông có nói rằng sau khi ASEAN và Trung Quốc thống nhất ký kết Tuyên bố chung về ứng xử ở Biển Đông, khu vực này tương đối yên bình trong suốt hơn 10 năm sau đó. Vậy thì tiếp theo, điều gì đã xảy ra? Vì sao Trung Quốc không còn ẩn nhẫn nữa?
Giáo sư Nayan Chanda: Chúng ta phải bắt đầu từ cột mốc năm 2009, khi Bắc Kinh gửi lên Liên Hiệp Quốc tấm bản đồ “đường 9 đoạn”, tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông, bao gồm gần 2 triệu km2 diện tích biển và 13km2 diện tích đất trên Biển Đông.
Với yêu sách này, toàn bộ Biển Đông đã bị biến thành “ao nhà” của Trung Quốc. Kể từ đó, Bắc Kinh đã triển khai hàng loạt các hành động gây hấn, bắt nạt, bức ép nhằm hiện thực hóa yêu sách đường chín đoạn đầy tham vọng này.
Bản đồ đường 9 đoạn, vẫn được gọi là "đường lưỡi bò", mà Trung Quốc đã vẽ ra trình lên Liên Hiệp Quốc năm 2009, tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông. Ảnh tư liệu.
|
Trong cùng năm 2009, PLA đụng độ với tàu do thám hải quân của Mỹ trên Biển Đông. Hàm ý của hành động này không khác gì một lời tuyên bố ngạo mạn: Đã qua rồi thời kỳ Trung Quốc phải “giấu mình chờ thời”.
Ba mươi năm tập trung hiện đại hóa nền kinh tế, củng cố sức mạnh quân sự, giờ Bắc Kinh không còn ngần ngại che giấu thực lực và tham vọng bá quyền khu vực nữa.
Đến giữa năm 2012, xung đột ở Biển Đông leo thang khi Philippines bắt giữ các tàu cá Trung Quốc đang đánh bắt gần bãi cạn Scaborough của nước này. Cáo buộc Manila quân sự hóa tranh chấp, Bắc Kinh đã điều tàu hải giám đến khu vực này, gây nên cuộc đối đầu căng thẳng chưa từng có trong suốt 10 tuần, cho đến khi Mỹ phải vào cuộc, yêu cầu hai bên kiềm chế.
Sau nhiều tuần nhóm họp, thảo luận và đàm phán, với vai trò trung gian, các quan chức Mỹ giữa tháng 6/2012 đã giúp xây dựng một thỏa thuận mà theo đó hai bên sẽ cùng rút lui khỏi khu vực tranh chấp. Song Trung Quốc lại không tuân thủ hạn chót mà thỏa thuận đề ra, vẫn duy trì các tàu hải giám tại khu vực và dần dần giành quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Tháng 5 năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan HD981 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, dẫn đến sự phản đối quyết liệt từ phía Việt Nam. Tàu thuyền hai bên đã có một số va chạm.
Năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, va chạm với lực lượng chấp pháp của Việt Nam. Trong ảnh là tàu Trung Quốc đang phun nước vào tàu Kiểm ngư Việt Nam. Ảnh tư liệu.
|
Và kể từ năm 2014 cho đến nay, Trung Quốc liên tục có những động thái tương tự, điều tàu thăm dò dầu khí đến khu vực có tranh chấp, được hộ tống bởi đội tàu hải giám hùng hậu. Giờ đây, với hơn 300 tàu hải giám, Trung Quốc đã mở rộng và duy trì được sự hiện diện của mình ở Biển Đông mạnh mẽ hơn bất kỳ nước nào khác.
Nếu nhìn lại, chúng ta sẽ thấy mô-típ trong hành động của Trung Quốc, đó là họ từng bước chậm rãi nhưng vô cùng chắc chắn, không ngừng mở rộng sự hiện diện chủ quyền của mình ở Biển Đông, từ tuyên bố cho đến hành động coi Biển Đông như vùng EEZ của mình, cho đến việc bồi đắp các đảo đá nhân tạo và xây dựng các kết cấu quân sự vững chắc trên đó.
Với hệ thống vệ tinh, ra-dar và tên lửa trên các bãi đá nhân tạo này, Bắc Kinh đã đi một bước lớn trong việc quân sự hóa Biển Đông, và cho thấy sự chuẩn bị sẵn sàng cho xung đột vũ trang ở Biển Đông.
Vậy vì sao giờ đây các nhà lãnh đạo Trung Quốc không cần giấu giếm tham vọng bá quyền của họ trong khu vực nữa?
Một mặt, Trung Quốc đã đạt được sức mạnh vượt trội và vươn lên cạnh tranh quyền lực với Mỹ. Mặt khác, đây cũng là hệ quả của mô-thức kinh điển trong lịch sử, khi một cường quốc mới nổi không ngừng tìm kiếm và mở rộng cái gọi là “không gian sinh tồn”, thách thức các trật tự quốc tế hiện hữu, bởi nhu cầu phát triển nội tại của chính nó.
Tôi còn nhớ năm 1992, một tờ báo Trung Quốc đã công khai loan báo: Do dân số Trung Quốc rất lớn, nên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là điều dễ hiểu.
Trung Quốc đang ở “chiếu trên” ở Biển Đông
- Trước một Bắc Kinh đầy tham vọng mở rộng lãnh thổ và không ngại leo thang những hành vi gây hấn, Biển Đông có nguy cơ trở thành chiến trường trong tương lai không?
Giáo sư Nayan Chanda: Biển Đông là khu vực tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột nhất hiện nay trong khu vực do vị trí chiến lược của nó, nơi tập trung gần một nửa giao thông hàng hải của thế giới. Bởi vậy, bất kỳ nước nào giành được lợi thế áp đảo ở Biển Đông sẽ gây ảnh hưởng đến hành xử của các nước khác.
Tương tự như vấn đề khu vực nhận dạng phòng không vậy. Trung Quốc đã tuyên bố vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông, nơi nước này đang tranh chấp với Nhật Bản, đòi hỏi tất cả các nước khi bay qua vùng này phải báo cáo với Trung Quốc.
Những yêu sách vô lý như vậy có thể gây nguy hiểm cho hàng không dân sự.
"Phải thẳng thắn nhìn nhận rằng chiến thuật “cắt lát sa-la-mi” mà Trung Quốc áp dụng ở Biển Đông đã có hiệu quả", Giáo sư Nayan Chanda nhận định. Ảnh: Nguyễn Luân.
|
Cho đến nay, Bắc Kinh chưa áp đặt vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông nhưng nếu họ làm điều đó, xung đột ở khu vực này có thể leo thang nhanh chóng bởi Trung Quốc đã quân sự hóa thành công trên các đảo mà nước này chiếm giữ.
Với hệ thống đồn trú, tên lửa và ra-dar, giờ đây Trung Quốc có đầy đủ năng lực để kiểm soát không chỉ vùng biển mà cả vùng trời trên Biển Đông. Điều đó cho họ vị thế “chiếu trên” để áp đặt luật lệ ở Biển Đông.
- Vậy lẽ nào thế giới không có cách nào để kiềm chế Bắc Kinh?
Giáo sư Nayan Chanda: Trước hết, phải nói về nhân tố đối trọng quan trọng nhất là Mỹ. Kể từ khi Tổng thống Trump lên nắm quyền, thế giới chứng kiến những động thái quyết liệt của Washington nhằm kiềm chế Bắc Kinh, đặc biệt là các biện pháp trừng phạt về thương mại, tạo nên cuộc chiến tranh thương mại quy mô lớn và căng thẳng suốt 15 tháng qua.
Washington cũng bắt đầu thực thi các hành động mạnh mẽ kiềm chế “sức mạnh mềm” của Bắc Kinh, mà biểu hiện qua các viện Khổng Tử. Giám đốc FBI từng điều trần trước Thượng viện Mỹ, cáo buộc các viện Khổng Tử “hoạt động như những kẻ do thám phi truyền thống”, “lợi dụng môi trường nghiên cứu cởi mở mà chúng ta có”.
Đối với Biển Đông, cho đến nay, Mỹ vẫn bảo vệ quan điểm tự do giao thương hàng hải qua khu vực này. Biển Đông có vai trò quan trọng không chỉ với chiến lược Indo-Pacific của Mỹ mà còn ảnh hưởng tới sự hiện diện của Mỹ ở căn cứ quân sự Okinawa, Nhật Bản.
Việc Trung Quốc gia tăng các động thái củng cố yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, vì vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Mỹ ở khu vực. Đó là lý do mà trong các đụng độ gần đây ở Biển Đông, Mỹ phải phái tàu hải quân và máy bay qua khu vực, như một tín hiệu ngầm cảnh báo: Mỹ vẫn ở quanh đây.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo các nước trong khu vực cũng cần phải lưu ý một điều: là: nếu họ không thách thức chính sách bá quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông và nếu Mỹ từ bỏ khu vực này thì chúng ta sẽ không còn lựa chọn nào khác, ngoài việc phải chấp nhận Trung Quốc.
- Vậy Việt Nam, với tư cách một nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, có thể làm gì để ứng phó với một Trung Quốc không ngừng leo thang các hành động gây hấn trực tiếp nhắm vào Việt Nam như hiện nay?
Giáo sư Nayan Chanda: Chúng ta phải đối diện với sự thực rằng Trung Quốc có sức mạnh vượt trội hơn cả về kinh tế và quân sự. Do đó, Việt Nam sẽ rất khó thách thức Trung Quốc về mặt quân sự. Bởi vậy, Việt Nam phải giải quyết thách thức lớn là làm thế nào bảo vệ các tuyên bố chủ quyền mà không bị cuốn vào xung đột vũ trang.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam có thể đánh động cộng đồng quốc tế về sự hung hăng của Trung Quốc. Hà Nội có thể tận dụng vai trò thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc để nêu vấn đề ra cuộc họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc sắp tới.
Hàng loạt các đảo đá ở biển Đông đã được Trung Quốc bồi lấp, hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng, đưa các thiết bị quân sự đến đồn trú. Ảnh tư liệu.
|
Họ cũng có thể phát huy vai trò Chủ tịch ASEAN năm tới để thúc đẩy một quan điểm thống nhất hơn trong ASEAN đối với các hành vi gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, mặc dù điều này không hề dễ dàng khi Trung Quốc đã “cài cắm” được một số đồng minh ở ASEAN.
Chiến lược nước lớn của Trung Quốc phát huy hiệu quả vì Bắc Kinh áp dụng chiến thuật “khi mờ, khi tỏ”, khiến cho thế giới mất cảnh giác. Nhưng giờ thì hầu như không còn mấy ai mơ hồ về Trung Quốc nữa. Các nhà lãnh đạo đã bắt đầu ý thức được nguy cơ từ chính sách bá quyền của Trung Quốc.
Australia là một ví dụ. Các công ty Trung Quốc từng hoạt động rất thành công ở nước này nhưng giờ đây người Australia ngày càng cảnh giác và theo dõi chặt chẽ các hoạt động của Trung Quốc ở nước này. Họ cũng đã xuất bản sách trắng phê phán các động thái của Bắc Kinh.
Tôi tin rằng sự công khai, minh bạch, phơi bày các hoạt động và tham vọng của Bắc Kinh sẽ có hiệu quả nhất định.
Tình thế tiến thoái lưỡng nan nếu phải chọn phe
- Lịch sử đã từng chứng kiến cuộc cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc từng đẩy các nước nhỏ hơn vào vòng xoáy chiến tranh và xung đột. Cuộc cạnh tranh quyền lực Mỹ - Trung hiện tại và tương lai sẽ đưa khu vực này về đâu?
Giáo sư Nayan Chanda: Cuộc cạnh tranh quyền lực gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc đặt Đông Nam Á trước những thách thức ghê gớm. Họ có thể đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan khi bị buộc phải chọn phe: Nếu về phe Mỹ, bạn có thể bị Trung Quốc trừng phạt; còn nếu theo phe Trung Quốc, bạn có thể bị Mỹ trừng phạt bằng cách tước bỏ những lợi ích về kinh tế, giao thương với nước này.
Chừng nào mà cả Mỹ và Trung Quốc vẫn nói rằng: “OK, anh không bị buộc phải chọn đứng về phe ai cả”, các nước Đông Nam Á sẽ không bị cuốn vào cuộc tranh chấp quyền lực này. Vấn đề là chúng ta không thể biết được rằng tình hình này sẽ kéo dài được bao lâu.
"Tôi tin rằng sự công khai, minh bạch, phơi bày các hoạt động và tham vọng của Bắc Kinh sẽ có hiệu quả nhất định", Giáo sư Nayan Chanda. Ảnh: Nguyễn Luân.
|
Rất có thể đến một lúc nào đó, Trung Quốc sẽ nói: Anh không nên cho phép tàu Mỹ ghé thăm cảng hay máy bay Mỹ vào không phận nước anh. Nếu Bắc Kinh đặt ra điều kiện như vậy thì các nước Đông Nam Á sẽ rơi vào tình huống vô cùng khó xử.
Nói tóm lại, chừng nào mà cả Mỹ và Trung Quốc không ép buộc các nước trong khu vực phải tuyên bố "lòng trung thành" thì họ có thể duy trì được bầu không khí hòa hoãn bằng việc giữ thế trung lập và yêu cầu cả hai hành xử một cách có lý trí.
- Là một dân tộc đã từng phải trả những cái giá rất đắt trong quá khứ khi bị mắc kẹt trong cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các siêu cường, theo ông, Việt Nam nên làm thế nào để tránh rơi vào tình thế này một lần nữa?
Giáo sư Nayan Chanda: Đây là một câu hỏi rất khó mà tôi thực sự chưa có câu trả lời xác đáng. Thực sự là Việt Nam với vị trí địa chiến lược cũng như vị thế là quốc gia lớn nhất ở Đông Nam Á, đang đứng trước tình thế lưỡng nan hơn cả.
Trước đây thì Mỹ từng không quan tâm lắm đến chuyện Việt Nam xích lại gần Trung Quốc. Tuy nhiên, giờ đây điều đó đã thay đổi. Ở Washington đang bắt đầu hình thành thái độ kiểu “có nó thì không có tôi”, theo kiểu như nếu anh thân thiện với Trung Quốc thì tức là anh không tử tế với Mỹ.
Đây là hiện tượng rất đáng quan ngại.
- Xin cám ơn ông về cuộc trờ chuyện thẳng thắn này./.