Sếp FPT giải thích lý do Việt Nam có nhiều tỷ phú bất động sản
Hà Thu
Phó tổng giám đốc FPT Đỗ Cao Bảo giải thích câu hỏi này với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Doanh nhân làm trong lĩnh vực công nghệ và đạt mức tài sản vài chục triệu USD trên sàn chứng khoán nhận xét: "Nền kinh tế Việt Nam mới ở 1.5 so với cách mạng 4.0".
Cập nhật đến thời điểm hiện tại, 7/10 người giàu nhất sàn chứng khoán Việt Nam kinh doanh trong lĩnh vực BĐS. Tên của những người này đã trở nên quen thuộc như ông Phạm Nhật Vượng với giá trị tài sản hiện tại là 30.406 tỷ; ông Trịnh Văn Quyết với 27.326 tỷ; ông Bùi Thành Nhơn với 9.821 tỷ;…
Giàu từ gốc BĐS luôn là chủ đề gây tranh cãi trong dư luận, nhất là khi nhìn ra thế giới, rất nhiều người trở thành tỷ phú nhờ công nghệ mà Mark Zuckerberg có thể xem là ví dụ điển hình.
Liệu điều này có là vấn đề bất thường không là một trong những câu hỏi được nhiều người đặt ra, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 đang bùng nổ.
Tuy nhiên, ông Đỗ Cao Bảo, Phó TGĐ CTCP FPT nhận xét câu chuyện trên đang đúng và phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế Việt Nam nếu xét dưới góc nhìn của cách mạng công nghiệp 4 thời kỳ và tháp nhu cầu Maslow.
“Đúng là thế giới đã bước vào công nghiệp 4.0, nhưng nền kinh tế Việt Nam, người tiêu dùng Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đang ở 1.0, 2.0, 3.0 hay 4.0? Trả lời được câu hỏi này thì sẽ trả lời được tất cả các câu hỏi trên”, ông Bảo cho biết.
Thứ nhất, Phó TGĐ FPT đánh giá người tiêu dùng Việt Nam mới chỉ dừng lại ở công nghiệp 1.5
Ông Bảo dẫn ra việc mãi đến năm 2009, GDP đầu người của Việt Nam mới đạt 1.171 USD, vượt qua ngưỡng nước nghèo. Đến năm 2017 dự kiến GDP đầu người Việt Nam đạt 2.300 USD, bằng 35% mức trung bình của thế giới.
Như vậy người dân Việt Nam mới vượt qua mức đủ ăn, đủ mặc, đang phấn đấu có đủ chỗ ở. “Nói theo ngôn ngữ cách mạng công nghiệp thì người tiêu dùng Việt Nam mới đang ở mức 1.5”, ông cho biết.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam cũng chỉ đang dừng lại ở 1.5.
Ông Bảo nhận xét rằng tuy Việt Nam đã có một số doanh nghiệp đi vào công nghiệp 4.0 như: áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), giải pháp thông minh (Smart Solution), Điện toán đám mây (Cloud), Phân tích dữ liệu lớn (Big Data), mạng xã hội (Social)... Nhưng có đến 65% vẫn đang là nông dân, lao động giản đơn, lao động thủ công (1.0); sản xuất công nghiệp chủ yếu là các mặt hàng gia công.
Bên cạnh đó, dù rằng Việt Nam có lượng hàng hoá xuất khẩu lớn, nhưng hầu hết là nông sản, thực phẩm, may mặc, dầy da và các mặt hàng gia công (may mặc, giầy da, linh kiện, thiết bị điện tử, điện thoại); xuất khẩu dịch vụ và chất xám rất ít.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp Việt Nam, cũng chỉ nhỉnh hơn một chút, ông Bảo nhận định đang ở mức 1.6.
Dựa theo định nghĩa về cách mạng công nghiệp (0.0: sản xuất thủ công; 1.0: động cơ hơi nước, cơ giới hoá; 2.0: điện, sản xuất đại trà; 3.0: máy tính, tự động hoá, sản xuất dây chuyền; 4.0: giải pháp thông minh, người máy), ông Bảo đã xếp các doanh nghiệp Việt theo mức từ 1.0 – 4.0 theo các nguyên tắc:
- Ngành nghề kinh doanh: từ 1.0 đến 4.0 theo định nghĩa cách mạng công nghiệp - Sản phẩm, dịch vụ: từ 1.0 đến 4.0 theo định nghĩa cách mạng công nghiệp
- Thị trường tiêu thụ: 1.0 nếu chỉ ở Việt Nam, 2.0 nếu ở Asean, 3.0 nếu sang các nước Nam Á, Châu Phi, Mỹ La tinh và 4.0 nếu sang các nước Âu, Mỹ, Nhật Bản.
- Xếp hạng doanh nghiệp theo số trung bình của ngành nghề, sản phẩm và thị trường (trung bình cộng của 3 nguyên tắc trên).
Theo phương pháp này thì kết quả xếp loại 50 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam, ông Bảo thu được: Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông, hải sản được xếp thấp nhất là doanh nghiệp 1.2 Doanh nghiệp BĐS, xây dựng được xếp hạng là doanh nghiệp 1.3
Doanh nghiệp bán lẻ thiết bị điện tử, tiêu dùng được xếp là doanh nghiệp 1.3 Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xe máy được xếp là doanh nghiệp 1.5
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ô tô được xếp là doanh nghiệp 1.6 Doanh nghiệp bán lẻ, phân phối thiết bị CNTT, Smart Phone được xếp là doanh nghiệp 1.6
Ngân hàng, bảo hiểm (chỉ có thị trường Việt Nam) được xếp là doanh nghiệp 1.8 Lĩnh vực phần mềm, dịch vụ CNTT, viễn thông là doanh nghiệp 2.8
Trung bình 50 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam là doanh nghiệp 1.6
Với kết qua trên, ông Đỗ Cao Bảo cho rằng việc đa phần tỷ phú Việt Nam làm trong lĩnh vực BĐS là điều hợp lý, phù hợp với quy luật phát triển cũng như tháp nhu cầu Maslow.
Theo ông, để có nhiều người giàu thuộc giới công nghệ, Việt Nam phải có nhiều doanh nghiệp 3.0, 4.0 đi tiên phong trong cuộc cách mạng 4.0, tạo ra giải pháp, dịch vụ và phải có thị trường toàn cầu, đặc biệt là thị trường Âu – Mỹ, Nhật Bản.
“Bạn nào đang kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ ở Việt Nam yên tâm: Bây giờ chưa phải thời của bạn, 10-15 năm sau mới là thời của bạn”, ông Bảo hài hước chia sẻ trên trang cá nhân. Dù vậy, ông nhấn mạnh “như vậy không có nghĩa là bạn ngồi chờ, vẫn phải hành động, tham gia vào cách mạng công nghiệp 4.0, và vẫn phải toàn cầu hoá.