close Đăng nhập

Đưa tác phẩm ngoài sách giáo khoa vào đề thi, cần chuẩn bị những gì?

VietTimes – Việc đưa tác phẩm ngoài sách giáo khoa vào đề thi là một thay đổi đúng đắn và cần thiết, tuy nhiên nếu không có sự chuẩn bị bài bản, nghiêm cẩn thì rất dễ rơi vào tình trạng rối loạn.
Nhà giáo
Nhà giáo

Đổi mới thi cử sẽ dẫn đến phản ứng dây chuyền là một sự tự điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục trước nó, đặc biệt là hoạt động học của học sinh. Chính vì thế, đối với môn văn, chủ trương đưa tác phẩm ngoài chương trình vào đề thi đã được đặt ra, tuy nhiên hiện nó đang gây ra những ý kiến trái chiều. Xin lưu ý, trong bài viết này, chúng tôi tự giới hạn phạm vi bàn luận chủ yếu đối với cấp Phổ thông trung học.

Đây là vấn đề quan trọng và đáng bàn, tuy vậy, theo quan sát của chúng tôi, trên các diễn đàn của giáo viên thì chủ trương này lại không phải đang được nhiều người đồng tình, sự phản đối nhiều hơn lại thuộc về phía người dạy! Và tất nhiên những sự lo lắng băn khoăn/phản đối ấy không phải là vô căn cứ.

Đầu tiên, phải nói ngay, từ lâu chúng tôi vốn đã đề xuất ý tưởng này, vì nó đúng đắn, tiến bộ và phổ biến trong các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, và nhất là sẽ chữa được những căn bệnh trầm kha trong dạy - học văn ở ta hiện nay. Điều này cũng đã được chương trình 2018 tường minh: “việc đánh giá kết quả học tập cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học trong một cuốn sách giáo khoa Ngữ văn cụ thể mà lấy yêu cầu cần đạt nêu trong văn bản chương trình môn học làm căn cứ để biên soạn đề kiểm tra, đánh giá”. Tuy thế, chúng ta phải cẩn trọng mà nhìn nhận rằng không phải cái gì đúng thì cũng có thể làm, hay ít nhất là có thể làm ngay được. Điều chúng tôi muốn bàn ở đây không phải chuyện nên hay không nên, mà là làm thế nào để nó thật sự mang lại hiệu quả, vì đây hiển nhiên là một hướng đúng mà chúng ta buộc phải tiến hành, không sớm thì muộn.

Việc đưa một tác phẩm ngoài chương trình vào đề thi trong những kỳ thi quốc gia quan trọng không thể được quyết định một cách cảm tính và duy ý chí. Đã có những lý lẽ được đưa ra để tạo niềm tin và bệ đỡ cho quyết định này, như chương trình mới (2018) cho phép sử dụng những tác phẩm tự chọn bên cạnh tác phẩm bắt buộc, như mục tiêu dạy học phát triển năng lực (thay cho mục tiêu kiến thức), như tiền đề tri thức thể loại văn học cũng đã được trang bị ít nhiều. Tuy nhiên, theo chúng tôi, chừng ấy là chưa đủ, nếu không nói là còn quá thiếu.

Vấn đề không phải là việc chúng ta đã đặt ra được 3 (hay thậm chí nhiều hơn 3) cơ sở ấy, mà quan trọng là triển khai thế nào để thật sự hiện thực hóa được những cơ sở ấy thành những sự thay đổi trong thụ đắc kiến thức, kỹ năng ở học sinh. Và giả sử có đạt được đi nữa thì như vậy đã đủ chưa? Chỉ mỗi tri thức về thể loại văn học thôi có đủ để giúp người học đánh giá, thẩm bình một tác phẩm không? Theo chúng tôi, nó không những không đủ mà còn thiếu thốn ở mức nghiêm trọng. Còn việc dạy học phát triển năng lực tất nhiên không thể dừng lại ở một “mong muốn” hay một “đề án”. Nó phải rất cụ thể, không những cụ thể trong mục tiêu mà còn phải cụ thể trong phương pháp để đạt được mục tiêu ấy.

Việc thi bằng tác phẩm ngoài sách giáo khoa một khi không được chuẩn bị chu đáo học sinh ắt sẽ sa vào tình trạng bình tán, suy diễn, lan man, mơ hồ – nó sẽ là một thảm họa. Để một người có năng lực đánh giá, phân tích, “phê bình” một tác phẩm văn học thì sự chuẩn bị phải rất nghiêm cẩn, không thể chủ quan hay hời hợt được. Chuẩn bị cái gì? Chuẩn bị bộ tri thức công cụ. Tri thức ấy không phải là chuyện học thuộc bài văn bài thơ hay nhớ được tiểu sử tác giả, hoàn cảnh sáng tác v.v., mà phải là một tri thức liên ngành được y cứ trên những hiểu biết căn bản về văn học.

Những hiểu biết ấy gồm những gì? Có 2 thứ quan trọng nhất, một là lịch sử văn học Việt Nam, đặt trong bức tranh và dòng chảy của văn học nhân loại. Và hai là lý luận văn học. Một nhận thức thông thường: không có công cụ thì không thể sản xuất, công cụ cùn mòn thì sản phẩm kém chất lượng. Giáo dục không phải là dạy cho người ta nhớ bài, mà là “dạy phương pháp” và “học phương pháp”. Phải mang đến cho học trò những chiếc chìa khóa để chúng có thể mở vào những căn phòng khác nhau.

Tuy nhiên, chương trình 2018 lại chưa thể hiện được một cách cơ bản những đòi hỏi trên. Cả tri thức về lịch sử văn học lẫn lý luận văn học đều ít ỏi, hạn chế và chủ yếu xoay quanh vấn đề thể loại văn học. Ở đây gần như vắng bóng các lý thuyết phê bình văn học được cung cấp một cách có hệ thống. Học sinh không thể khai thác tác phẩm một khi không có được một chỗ đứng và những công cụ cần thiết.

Đọc một bài thơ mà chỉ có những tri thức chung chung về thơ thì không thể khai thác được gì. Và tình trạng có thể diễn ra là chúng ta sẽ chỉ có những bài làm cùng một khuôn mẫu vì thiếu những góc nhìn và phương pháp đa dạng. Dường như chương trình 2018 là một bước “hạ chuẩn” so với chương trình cũ khi nhiều đơn vị lý luận đã bị giảm trừ. Ở đây chúng tôi nhận thấy, vấn đề của nội dung dạy học không phải là khó hay dễ mà là làm thế nào để tạo ra sự hấp dẫn. Việc nắm được ý nghĩa của một bài thơ cụ thể và việc hiểu được thế nào là phê bình Phân tâm học thì khó nói chắc cái nào khó hơn; tuy nhiên chúng ta lại điềm nhiên gạt nội dung phía sau ra, trong khi nó mới chính là công cụ để hiểu cái phía trước! Đây là một cách xây dựng chương trình chứa đựng những khiếm khuyết khá rõ và không đảm bảo tính khoa học cần thiết.

Tóm lại, chúng tôi muốn nhắc lại và nhấn mạnh vào một điểm then chốt: nội dung chương trình phải tập trung vào dạy và học công cụ/phương pháp. Vì chỉ có nó mới giúp người học tự mình “đọc” được tác phẩm văn chương. Điều này cũng đúng với các môn học khác: học là học phương pháp tư duy, chứ không phải để trở thành thợ giải toán hay những cái máy viết văn.

Có một điểm quan trọng liên quan đến không những công cụ tư duy mà còn là câu chuyện của nhận thức, của nhân sinh quan và thế giới quan: triết học. Học sinh cần được tiếp xúc và có những ý niệm cơ bản về triết học và các trường phái triết học. Việc này không phải là một đòi hỏi quá trớn. Các trường phái văn học cho đến các lý thuyết phê bình văn học đều được sinh khởi từ cội nguồn các tư tưởng triết học cụ thể, cho nên việc dạy và học triết học để hiểu văn học là một điều hoàn toàn hợp lý và không có gì quá đáng cả. Trong khi đó, triết học lại chính là môn học có vị trí quan trọng bậc nhất trong việc rèn luyện tư duy độc lập, lập luận logic dựa trên lý tính cùng khả năng phản biện.

Tức là triết học không phải chỉ cần cho môn văn, triết phải là nền tảng cho mọi môn học. Cần đưa triết học trở lại nhà trường phổ thông. Nếu không có nó, việc “đọc” tác phẩm văn học bao giờ cũng nông cạn và luôn có nguy cơ sa vào chuyện bình tán miên man vô căn cứ. Các nền giáo dục tiến bộ trên thế giới đều làm như thế, và cả giáo dục miền Bắc, miền Nam trước đây cũng đã có nơi có lúc xây dựng chương trình phổ thông như thế – có sự hiện diện của triết học. Ở miền Nam, trong cả 4 ban của Trung học đệ nhị cấp (nay gọi là "cấp III") gồm Văn chương sinh ngữ, Văn chương cổ ngữ, Khoa học Toán, và Khoa học Thực nghiệm đều đưa triết học vào. Điều ấy chứng tỏ triết học đã từng đóng một vai trò quan trọng trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Vấn đề này, triết học trong nhà trường phổ thông, chúng tôi sẽ trở lại trong bài sau để cùng bàn sâu hơn.

Môn văn lâu nay vốn đã bị lạm dụng quá nhiều về sự cảm tính (không phải cảm xúc), tức là thiếu một cơ sở, một điểm tựa về mặt văn hóa hay lý thuyết, thành ra nó luôn sa vào chuyện "chặt câu, chẻ chữ", nếu không là suy diễn. Chúng ta thường phải đọc những bài văn không những thiếu cá tính mà còn thiếu luận điểm; ở một cực khác là sự xa rời văn bản mà người ta hay gọi là "tán hươu tán vượn", diễn dịch một cách tùy tiện để phục vụ cho sự ca ngợi một chiều hoặc "phê phán" kiểu đấu tố. Tất cả những điều này đã tạo ra một cái "hồn" của văn học nhà trường mấy chục năm qua: sự diễn – vụng về, khuôn sáo, gượng gạo. Đó chính là tính hoa mỹ nhưng sáo rỗng, là những bài văn vô hồn vô cảm, vô thưởng vô phạt.

Tất cả tình trạng này phải được nhìn thấy từ trong nguyên nhân gốc rễ của nó: khi người học không có quan điểm (điểm nhìn/điểm quan sát – tức cơ sở về mặt lý thuyết và tư duy) mà chỉ có những kiến thức được học thuộc dưới dạng văn mẫu thì không cách gì có thể tạo lập được một "tác phẩm" mang dấu ấn cá nhân.

Và một điều xuyên suốt rất cần phải nhấn mạnh: việc đưa tác phẩm ngoài sách giáo khoa vào đề thi không phải là để đổi mới thi cử như là một khâu độc lập. Mục đích ở đây là để tác động vào toàn bộ quá trình giáo dục và thay đổi chất lượng dạy văn, học văn – tức nhằm vực dậy năng lực tiếng Việt và bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, tư duy cho người học. Nếu xa rời những mục tiêu căn cốt này thì chuyện đưa tác phẩm ngoài sách giáo khoa vào đề thi sẽ lại rất dễ lâm vào tình trạng "đầu voi đuôi chuột" hoặc sa vào chủ nghĩa hình thức – những thứ vốn đã tồn tại quá lâu trong nền giáo dục của ta.

Bình luận

Hiệu quả từ phong cách điều hành mới của lãnh đạo Hà Nội

Hiệu quả từ phong cách điều hành mới của lãnh đạo Hà Nội

Những chuyển động mạnh mẽ ở Vành đai 1 và cách Hà Nội xử lý điểm nghẽn trong thời gian kỷ lục cho thấy tinh thần mới: nói đi đôi với làm, quyết liệt, sâu sát và vì dân. Thủ đô đang bước vào giai đoạn thay đổi rõ rệt trong phương thức điều hành.

Đào tạo bác sĩ không thể chỉ dựa vào bài giảng

Đào tạo bác sĩ không thể chỉ dựa vào bài giảng

Chủ trương chỉ các trường đại học y đào tạo bác sĩ được đánh giá là bước cần thiết để bảo đảm chất lượng nhân lực y khoa, khi nhiều trường đa ngành thiếu cơ sở thực hành, giảng viên lâm sàng. Đây là biện pháp ngăn sai sót y khoa từ gốc.

Bí thư Trần Lưu Quang và buổi gặp "3 không - 3 có”

Bí thư Trần Lưu Quang và buổi gặp "3 không - 3 có”

Không hoa hoè, không khẩu hiệu, không “kính thưa, kính gửi”, phong cách giản dị và trí tuệ của Bí thư Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang đang mở ra một hướng chuyển mình mới: gần dân, cầu thị và hành động thực chất.

Tiêu chí mới với lãnh đạo trong kỷ nguyên số

Tiêu chí mới với lãnh đạo trong kỷ nguyên số

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 14 nhấn mạnh bước chuyển trong công tác cán bộ cấp cao từ chọn người “đủ đức, đủ tài” sang tìm kiếm những lãnh đạo có năng lực số, tư duy dữ liệu và khả năng hành động đến cùng.

Nhà báo

Công ước Hà Nội và trật tự mới của thế giới số

Công ước Hà Nội không chỉ là thắng lợi ngoại giao của Việt Nam, mà còn là bước ngoặt trong nỗ lực toàn cầu chống tội phạm mạng, khẳng định rằng không gian số phải được quản trị bằng luật pháp, hợp tác và trách nhiệm quốc tế.

"Đứa con nuôi" của thị trường bất động sản

"Đứa con nuôi" của thị trường bất động sản

Bản án của toà TP.HCM tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu vì ngân hàng cho vay khi chủ đầu tư chưa đủ điều kiện bán hàng đã chạm tới "gót chân Achilles" của cả thị trường bất động sản nghỉ dưỡng, nơi pháp lý còn nhiều khoảng trống. 

Khi phụ nữ độc thân được quyền làm mẹ nhờ IVF

Khi phụ nữ độc thân được quyền làm mẹ nhờ IVF

Từ 1/10, phụ nữ độc thân tại Việt Nam được tiếp cận IVF hợp pháp. Chính sách nhân văn này mở rộng quyền sinh sản, nhưng cũng đặt ra thách thức về chi phí, quản lý y tế, hành lang pháp lý và định kiến xã hội.

Ngập lụt Thủ đô và khoảng trống trách nhiệm

Ngập lụt Thủ đô và khoảng trống trách nhiệm

Nước sẽ rút đi, nhưng ký ức về Thủ đô chìm trong biển nước, về những giờ phút khổ sở của hàng vạn người dân sẽ còn đọng lại rất lâu. Chính quyền Hà Nội không thể xem đó đơn thuần chỉ là hậu quả của thiên tai.

10 chữ vàng và sứ mệnh mới của VTV trong kỷ nguyên số

10 chữ vàng và sứ mệnh mới của VTV trong kỷ nguyên số

Tổng bí thư Tô Lâm trao Huân chương Lao động hạng Nhất và tặng 10 chữ vàng cho VTV nhân dịp 55 năm ngày phát sóng. Vinh dự này không chỉ là phần thưởng, mà còn là lời nhắc về sứ mệnh mới: giữ niềm tin, lan tỏa giá trị Việt trong kỷ nguyên số.