Biểu hiện lâm sàng đa dạng
Theo Bộ Y tế, bệnh nhân COVID-19 có biểu hiện lâm sàng đa dạng - từ nhiễm không có triệu chứng, tới những biểu hiện bệnh lý nặng như viêm phổi nặng, suy hô hấp, sốc nhiễm trùng, suy chức năng đa cơ quan và tử vong, đặc biệt ở những người cao tuổi, người có bệnh mạn tính hay suy giảm miễn dịch với số lượng tế bào phản ánh hệ thống miễn dịch (TCD4) giảm dưới 250 tế bào/mm3, người có xét nghiệm chẩn đoán huyết khối trong máu (D-Dimer) tăng cao hoặc có đồng nhiễm hay bội nhiễm các căn nguyên khác như vi khuẩn, nấm.
Hiện, chưa có thuốc đặc hiệu và chưa có vaccine phòng COVID-19 nên bệnh nhân chủ yếu được điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Các biện pháp phòng bệnh chính là phát hiện sớm và cách ly ca bệnh.
Các trường hợp nghi ngờ mắc COVID-19 gồm các trường hợp bị sốt và/hoặc viêm đường hô hấp cấp tính không lý giải được bằng các nguyên nhân khác; người bệnh có triệu chứng hô hấp, có tiền sử về từ vùng dịch tễ, mắc COVID-19 trong 14 ngày trước khi bệnh khởi phát , tiếp xúc gần với trường hợp bệnh nghi ngờ trong 14 ngày trước khi có triệu chứng,…
Đáng chú ý, bệnh nhân mắc COVID-19 có thời gian ủ bệnh từ 2-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày. Khi bệnh khởi phát có các triệu chứng thường gặp là sốt, ho khan, mệt mỏi và đau cơ. Một số trường hợp bị đau họng, nghẹt mũi, chảy nước mũi, đau đầu, ho có đờm, nôn và tiêu chảy.
Khu vực cách ly đặc biệt (Ảnh: Minh Thúy)
|
Hơn 80% người bệnh chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng 1 tuần. Tuy nhiên một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng nào.
Khoảng 14% số bệnh nhân diễn biến nặng như viêm phổi, viêm phổi nặng cần nhập viện, khoảng 5% cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biểu hiện hô hấp cấp (thở nhanh, khó thở, tím tái, …), hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), sốc nhiễm trùng, suy chức năng các cơ quan bao gồm tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến tử vong.
Thời gian trung bình từ khi có triệu chứng ban đầu tới khi diễn biến nặng là từ 7-8 ngày.
Bộ Y tế cho hay, nguy cơ bệnh nhân tử vong xảy ra nhiều hơn ở người cao tuổi, người suy giảm miễn dịch và mắc các bệnh mạn tính kèm theo. Ở người lớn, các yếu tố tiên lượng tăng nguy cơ tử vong là tuổi cao.
Ở trẻ em, đa số trẻ mắc COVID-19 có các các biểu hiện lâm sàng nhẹ hơn người lớn, hoặc không có triệu chứng. Các dấu hiệu thường gặp ở trẻ em là sốt và ho, hoặc các biểu hiện viêm phổi. Tuy nhiên một số trẻ mắc Covid-19 có tổn thương viêm đa cơ quan tương tự bệnh Kawasaski: sốt; ban đỏ hoặc xung huyết giác mạc, hoặc phù nề niêm mạc miệng, bàn tay, chân; suy tuần hoàn; các biểu hiện tổn thương chức năng tim và tăng men tim; rối loạn tiêu hóa; rối loạn đông máu và tăng các chỉ số viêm cấp.
Sau giai đoạn toàn phát 7-10 ngày, nếu không có ARDS bệnh nhân sẽ hết sốt các dấu hiệu lâm sàng dần trở lại bình thường và khỏi bệnh. Hiện, chưa có bằng chứng khác biệt về các biểu hiện lâm sàng của COVID-19 ở phụ nữ mang thai.
Xác định điều trị theo mức độ nghiêm trọng của bệnh
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, nguyên tắc điều trị chung đó là phân loại người bệnh và xác định nơi điều trị theo các mức độ nghiêm trọng của bệnh. Các trường hợp bệnh nghi ngờ (có thể xem như tình trạng cấp cứu): cần được khám, theo dõi và cách ly ở khu riêng tại các cơ sở y tế, lấy bệnh phẩm đúng cách để làm xét nghiệm đặc hiệu chẩn đoán xác định. Trường hợp bệnh xác định cần được theo dõi và điều trị cách ly hoàn toàn.
Ca bệnh nhẹ (viêm đường hô hấp trên, viêm phổi nhẹ) điều trị tại các khoa phòng thông thường.
Ca bệnh nặng (viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết) cần được điều trị tại các phòng cấp cứu của các khoa phòng hoặc hồi sức tích cực.
Ca bệnh nặng, nguy kịch (suy hô hấp nặng, ARDS, sốc nhiễm trùng, suy đa cơ quan) cần được điều trị hồi sức tích cực.
Do chưa có thuốc đặc hiệu, điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng là chủ yếu, đồng thời, cá thể hóa các biện pháp điều trị cho từng trường hợp, đặc biệt là các ca bệnh nặng, nguy kịch. Ngoài ra, có thể áp dụng một số phác đồ điều trị nghiên cứu được Bộ Y tế cho phép.
Các biện pháp theo dõi và điều trị chung được Bộ Y tế đưa ra đó là nghỉ ngơi tại giường, phòng bệnh cần được đảm báo thông thoáng, có thể sử dụng hệ thống lọc không khí hoặc các biện pháp khử trùng phòng bệnh khác như đèn cực tím (nếu có).
Người bệnh cần được vệ sinh mũi họng, có thể giữ ẩm mũi bằng nhỏ dung dịch nước muối sinh lý, xúc miệng họng bằng các dung dịch vệ sinh miệng họng thông thường, giữ ấm, uống đủ nước, đảm bảo cân bằng dịch, điện giải.
Cùng với đó, thận trọng khi truyền dịch cho người bệnh viêm phổi nhưng không có dấu hiệu của sốc; đảm bảo dinh dưỡng và nâng cao thể trạng, bổ xung vitamin nếu cần thiết. Với người bệnh nặng, nguy kịch, cần áp dụng hướng dẫn dinh dưỡng của Hội Hồi sức cấp cứu và chống độc đã ban hành.
Nếu người bệnh bị sốt cao có thể dùng paracetamol liều 10-15 mg/kg/lần, không quá 60 mg/kg/ngày cho trẻ em và không quá 2 gam/ngày với người lớn; giảm ho bằng các thuốc giảm ho thông thường nếu cần thiết; đánh giá, điều trị, tiên lượng các tình trạng bệnh lý mãn tính kèm theo.
Trong quá trình điều trị, bác sĩ cần theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu lâm sàng, tiến triển của tổn thương phổi trên phim X-quang và/hoặc CT phổi, đặc biệt trong khoảng ngày thứ 7-10 của bệnh, phát hiện các dấu hiệu tiến triển nặng của bệnh như suy hô hấp, suy tuần hoàn để có các biện pháp can thiệp kịp thời.
Tại các cơ sở điều trị cần có các trang thiết bị, dụng cụ cấp cứu tối thiểu: máy theo dõi độ bão hòa ô xy, hệ thống/bình cung cấp oxy, thiết bị thở oxy (gọng mũi, mask thông thường, mask có túi dự trữ), bóng, mặt nạ, và dụng cụ đặt ống nội khí quản phù hợp các lứa tuổi.