Cụ thể, căn cứ để có số liệu thống kê sơ bộ là Thông tư số 68/2011/TT-BTC ngày 21/11/2011 của Bộ Tài chính. Theo đó, thời điểm thống kê là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan được cơ quan hải quan chấp nhận, tuy nhiên số liệu này mới là báo cáo thống kê được tạm chốt.
Sau thời điểm này, trong quá trình làm thủ tục, sẽ có những tờ khai sửa đổi, bổ sung, hoặc phải hủy... Do đó, các số liệu sau giai đoạn này sẽ không khớp với số liệu ban đầu và điều đó giải thích vì sao các biểu sơ bộ được Tổng cục Hải quan phổ biến hàng tháng là số liệu có thể thay đổi khi có thông tin mới cập nhật.
Theo Tổng cục Hải quan, việc thay đổi số liệu thống kê sẽ được phản ánh trạng thái tại các biểu có ký hiệu “Điều chỉnh,” “Chính thức” được thực hiện sáu tháng một lần.
Như vậy, số liệu thống kê của cơ quan hải quan sẽ có ba dạng sau: sơ bộ, điều chỉnh và chính thức.
Mặt khác, việc điều chỉnh số liệu thống kê xuất nhập khẩu của cơ quan hải quan là một nghiệp vụ thông thường, không thể thiếu trong quy trình nghiệp vụ thống kê và được quy định, điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, nghiệp vụ này cũng được Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc (UNSD) và các tổ chức thống kê quốc tế khuyến nghị các nước thực hiện để minh bạch hóa quy trình nghiệp vụ thống kê.