PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương và ông Lê Tấn Dũng - Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) chủ trì Hội nghị.
Bộ LĐ-TB&XH cho biết, sau 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, có 3 chỉ tiêu chủ yếu đã đạt được một số mục tiêu quan trọng.
Về phát triển thị trường lao động, trong giai đoạn 2006 – 2018, đã giải quyết việc làm cho 2.174 triệu lao động; 6 tháng đầu năm 2019, giải quyết việc làm cho 710.000 lao động. Hoạt động vay vốn tạo việc làm từ quỹ Quốc gia về việc làm tiếp tục góp phần hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho người lao động.
Về phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Trong giai đoạn 2004 đến 2008: số lượng cơ sở dạy nghề của vùng chiếm 16% của cả nước với 94 cơ sở dạy nghề. Giai đoạn 2009 đến 2013, tỷ lệ cơ sở dạy nghề trong vùng so với cả nước tăng 17,6%, số lượng cơ sở dạy nghề tăng 2,5 lần đạt 247 cơ sở (năm 2013), đặc biệt là số lượng trường cao đẳng tăng 2,5 lần. Giai đoạn 2014 đến nay: Vùng có 301 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chiếm 16% số cơ sở giáo dục nghề nghiệp cả nước.
Về công tác giảm nghèo, an sinh xã hội, tỉ lệ nghèo các tỉnh vùng trung du miền núi phía Bắc giảm nhanh, từ gần 40% năm 2005 đã giảm xuống còn 16% tính đến đầu năm 2019. Đặc biệt, tỉ lệ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, các xã nghèo giảm bình quân từ 3-4%/năm.
Đến hết năm 2018, toàn vùng có 7 huyện thoát nghèo và được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, 72 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong khu vực đạt chuẩn Nông thôn mới.
Cùng với đó, việc tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội có nhiều đổi mới. Đến năm 2018, vùng trung du miền núi phía Bắc có gần 700.000 người hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, kinh phí trợ giúp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế, đạt gần 4.000 tỷ đồng. Có gần 5.000 đối tượng được nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội, với mức nuôi dưỡng bình quân 1,2 triệu đồng/người/tháng.
Tại Hội nghị, Bộ LĐ-TB&XH đặt ra mục tiêu đến năm 2030 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70 - 75%; tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm còn 45 - 50%. Phấn đấu hàng năm giảm bình quân 1,5% hộ nghèo.
Đến năm 2030, 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng; có chính sách trợ giúp đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; tiếp tục mở rộng diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của Nhà nước được hưởng trợ cấp xã hội.
80% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.
Giai đoạn 2025-2030 phấn đấu nâng quy mô tuyển sinh đạt trên 4,6 triệu người mỗi năm; ít nhất 85% người đã được học có việc làm hoặc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo; có 70 trường được công nhận trường chất lượng cao, trong đó có tối thiểu 5 trường đạt cấp độ các nước phát triển trong nhóm G20; 40 trường tiếp cận cấp độ các nước ASEAN-4; phấn đấu có tối thiểu 20% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập tự chủ về tài chính.