Tổng cục Năng lượng (Bộ Công thương) đã có đề nghị Tổng cục Hải quan sớm hoàn thiện thủ tục theo quy định để thông quan đối với các mặt hàng than do Formosa Đồng Nai đã nhập khẩu.
Lượng than này do Formosa nhập về sử dụng. Lý do được Formosa đưa ra là than trong nước có chất bốc thấp, không phù hợp với thiết bị công nghệ nhà máy phát điện của Formosa Đồng Nai. Đồng thời Formosa cũng khẳng định là doanh nghiệp có kinh nghiệm và có nguồn cung tốt, do đó doanh nghiệp này đề nghị được tự nhập than không qua các doanh nghiệp do Chính phủ định chỉ định.
Trước đây, việc nhập khẩu than này của Formosa đã được Chính phủ phê duyệt qua Thông báo số 101/TB-VPCP ngày 9/7/2003 của Văn phòng Chính phủ.
Đến năm 2004, do giá than nhập khẩu rẻ, chất lượng đủ để đáp ứng nhu cầu cho các nhà máy phát điện, đồng thời than khai thác xuất khẩu đang được giá nên Chính phủ cho phép Formosa được tự chủ việc nhập khẩu than.
Nhưng từ năm 2014, tồn kho than sản xuất trong nước tăng cao, Chính phủ đã có Thông báo số 346/TB-VPCP ngày 26/8/2014, quy định ưu tiên sử dụng than trong nước để phát điện và các doanh nghiệp phải mua hoặc nhập khẩu than phải thông qua hai đầu mối chính là TKV và Than Đông Bắc.
Động thái tập trung vào hai đầu mối này của Chính phủ được cho là phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm các doanh nghiệp đầu mối tìm được nguồn cung cấp than ổn định, với chất lượng và giá cả phù hợp.
Tuy nhiên, việc quy về hai đầu mối này khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn khi giá than sản xuất trong nước hiện tại luôn cao hơn giá than nhập khẩu. Ngoài ra, than của TKV và Than Đông Bắc có thể lại là than phối trộn giữa than nhập khẩu giá rẻ và than trong nước giá cao, dẫn đến cả giá thành và chất lượng cũng không rẻ và không đồng đều như than nhập khẩu.
Vì vậy, việc Formosa Đồng Nai đang muốn tự chủ nguồn than sử dụng và và mong muốn Tổng cục Hải quan hoàn thiện cơ chế thông quan cho số than chờ thủ tục nhập khẩu của Fomosa là điều có thể hiểu.
Điều này dẫn đến việc Bộ Công thương phải hối thúc Tổng cục Hải quan để "tháo dỡ khó khăn cho doanh nghiệp".
Theo thông báo của TKV, lượng tồn kho than trong nước sản xuất hiện đang ở mức 10 triệu tấn. Trong khi đó, hết 9 tháng đầu năm, lượng xuất khẩu than (theo báo cáo của Tổng cục Hải quan) đã sụt giảm hơn 50% về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2015, đứng đầu trong các mặt hàng sụt giảm xuất khẩu. Sản xuất tồn kho, xuất khẩu giảm sút, đang khiến TKV rất khó khăn.
Chiều ngược lại, nhập khẩu than của Việt Nam qua TKV và từ nhiều DN có xu hướng tăng rất mạnh. Hết 9 tháng, cả nước đã nhập hơn 10,5 triệu tấn than, bằng với lượng than tồn kho, đạt giá trị khoảng 654 triệu USD, tăng mạnh nhất trong các mặt hàng nhập khẩu về Việt Nam, khoảng 147% về lượng và 82% về giá trị.