Ông Vũ Khoan: Mỹ sẽ không để Trung Quốc muốn làm gì thì làm

VietTimes -- "Chúng ta không khuyến khích chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhưng cũng phải nhìn lại xem phía Trung Quốc đã cư xử với chúng ta như thế nào. Miệng họ nói hữu hảo, nhưng họ lại đi chiếm lãnh thổ của chúng ta", nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan chia sẻ quan điểm của ông với VietTimes.

Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan
Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan

Ông Vũ Khoan đã thẳng thắn nhận định về quan hệ Việt-Mỹ trước thềm chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Mỹ Barack Obama vào cuối tháng 5 này, tình hình Biển Đông và một số vấn đề nóng khác...

Nhiều vấn đề quan trọng sẽ được bàn thảo

Nhiều người cho rằng chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Barack Obama vào cuối tháng 5 này sẽ mở ra một triển vọng hợp tác mới. Tuy nhiên, có người lại cho rằng, đây chỉ là chuyến thăm xã giao vì ông Obama đã ở cuối nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ rồi. Là nhà hoạt động ngoại giao lâu năm, lại từng là quan chức cao cấp của Đảng và Nhà nước, theo ông Việt Nam hy vọng gì ở chuyến thăm này?

- Thật ra những chuyến thăm ngoại giao cấp cao thường có tính biểu tượng rất cao, cho dù nó không đưa đến một thỏa thuận cụ thể nào. Bản thân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Obama đã nói lên tầm quan trọng của nó rồi. Chuyến thăm này nằm trong khuôn khổ của một tính toán chính trị, hay nói đúng ra là tính toán chiến lược rất quan trọng của Mỹ.

Chuyến đi diễn ra trong bối cảnh Mỹ đang chuyển hướng chiến lược xoay trục sang Châu Á- Thái Bình Dương (TBD). Mà trong Châu Á- TBD thì Việt Nam luôn có vị trí địa chính trị, địa kinh tế cực kỳ quan trọng.

Điều đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh đến tính biểu tượng của chuyến thăm này. Thứ nhất, nó thể hiện chính sách của Mỹ coi trọng Châu Á-TBD trong đó coi trọng Việt Nam. Thứ hai, nó đánh dấu một bước phát triển thêm nữa quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ, vì nếu nhìn lại 21 năm vừa rồi thì mối quan hệ đó được tịnh tiến từng bước: năm 1993 Tổng thống Bill Clinton bắt đầu bãi bỏ cấm vận, đến 1995 thì thiết lập quan hệ ngoại giao, đến 2000 mới ký Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (BTA), rồi 2006 mới kết thúc đàm phán WTO và ông George W.Bush lần đầu tiên thăm Việt Nam, rồi tiếp sau đó là năm 2005 Thủ tướng Phan Văn Khải sang thăm chính thức Hoa Kỳ, tiến lên một bậc cao là năm 2015 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ, vào nhà Trắng- tất cả những chuyện đó đánh dấu những bước phát triển mới. Việc Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam lại đánh dấu thêm một bước tiến mới nữa.

Điều thứ hai tôi muốn nói tới là tính thực tế của chuyến thăm. Tại cuộc gặp cấp cao lần này, hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ đề ra đường hướng đẩy mạnh phát triển quan hệ giữa hai nước. Có thể có người lo ngại rằng, ông Obama sắp hết nhiệm kỳ đến nơi rồi, ông ấy đề ra đường hướng gì nữa. Chúng ta cần hiểu rằng, với nước Mỹ, bất kể ai cầm quyền thì chính quyền đó đều phải đặt lợi ích của nước Mỹ lên hàng đầu. Mà như tôi đã nói, khu vực châu Á-TBD là khu vực chiến lược có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong chiến lược toàn cầu của nước Mỹ.

Theo ông, trong chuyến thăm Việt Nam lần này hai bên sẽ trao đổi cụ thể những vấn đề gì?

- Về kết quả của những vấn đề cụ thể còn phụ thuộc vào các cuộc đàm phán giữa hai bên. Tuy nhiên, hàng loạt vấn đề quan trọng đang chờ hai bên và chắc chắn lãnh đạo cấp cao hai nước sẽ phải trao đổi. Ví dụ vấn đề TPP, hai nước cùng là thành viên TPP thì sẽ phê chuẩn thế nào? Sẽ thực hiện thế nào? Rồi Mỹ cần giúp đỡ Việt Nam thế nào để thực hiện TPP… Tôi chắc đấy sẽ là vấn đề mà hai bên sẽ dành nhiều thời gian để trao đổi.

Vấn đề thứ hai mà Việt Nam và Mỹ quan tâm nữa là hợp tác quốc phòng. Lĩnh vực hợp tác này cũng đã có những bước tiến rất dài rồi, nhưng hiện vẫn còn một vướng mắc là Chính phủ Mỹ mới gỡ bỏ một phần lệnh cấm buôn bán vũ khí sát thương với Việt Nam. Ngày càng có nhiều tiếng nói của dư luận Mỹ đòi phải bỏ lệnh cấm vận ấy đi đối với Việt Nam. Tôi chắc đó cũng là đề tài mà hai bên sẽ đàm phán.

Đề tài thứ ba là vấn đề Biển Đông. Lập trường của chúng ta về vấn đề này thế nào thì ai cũng biết và lập trường của Mỹ thế nào ai cũng rõ. Vì hai bên cùng đều có mối quan tâm chung nên chắc cũng phải trao đổi tìm ra giải pháp nhằm giữ ổn định tình hình ở Biển Đông. Rồi thì vấn đề tự do hàng hải, an toàn hàng hải cũng là những cái cần phải trao đổi, thỏa thuận.

Vấn đề thứ 4 là ASEAN. Mỹ rất coi trọng khối ASEAN. Cuộc gặp của Tổng thống Obama với lãnh đạo 10 nước ASEAN vừa rồi ở Sunnylands, California cho thấy Mỹ đánh giá ASEAN rất quan trọng, mà Việt Nam lại là thành viên tích cực của ASEAN. Vì vậy, tôi nghĩ đề tài Mỹ - ASEAN sẽ là vấn đề mà hai bên có thể trao đổi được, hay đề tài Mỹ và sông Mê Kông. Mỹ có một diễn đàn với các nước sông Mê Kông hoạt động nhiều năm nay rồi, trong bối cảnh mới hạn hán, biến đổi khí hậu như thế, tôi nghĩ đề tài hợp tác chống biến đổi khí hậu hoặc hợp tác trên sông Mê Kông cũng là một đề tài để mà thảo luận.

Đừng kỳ vọng ai cứu nếu mình không tự cứu

Vậy cách nhìn nhận của ông về vấn đề này như thế nào với tư cách là một nhà lãnh đạo ngành ngoại giao kỳ cựu?

- Thái độ của tôi là coi trọng những việc như vậy. Tuy nhiên làm được đến đâu, và làm như thế nào thì tùy thuộc rất nhiều nhân tố, mà trong đó nội lực của chúng ta là cực kỳ quan trọng. Nội lực ở đây là cả nội lực vật chất, nội lực tinh thần. TPP có đấy nhưng chúng ta có tận dụng được lợi ích mà nó mang lại hay không là do chính chúng ta, chứ không phải “trên trời” rơi xuống, nên đừng có tư tưởng “há miệng chờ sung”.

Thưa ông, như chúng ta nhận thấy, quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ đang từng bước phát triển lớn mạnh. Theo ông thì liệu Việt Nam và Mỹ có thể nâng tầm quan hệ lên mức chiến lược, thậm chí là đồng minh như quan hệ Mỹ với Nhật Bản, Mỹ với Hàn Quốc không?

- Trước tiên phải nói rằng, tên gọi của mối quan hệ cũng quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn cả vẫn là thực chất của mối quan hệ đó. Xét trên thực tế thì thấy, chúng ta có những mối quan hệ tầm chiến lược, rồi quan hệ đặc biệt với nước này, nước kia, nhưng thực chất không mang lại nhiều hiệu quả lắm. Trái lại, quan hệ của chúng ta với Mỹ, tuy chỉ là quan hệ đối tác toàn diện thôi, thấp hơn quan hệ đối tác chiến lược, nhưng nó sôi động hơn, mang lại nhiều hiệu quả hơn. Ví dụ, buôn bán chẳng hạn, với Mỹ năm 2014 lên tới 36 tỷ USD. Trong khi đó với hàng chục đối tác chiến lược khác, thì chỉ chừng vài tỷ thôi. Vì thế chúng ta hãy quan tâm đến thực chất, còn vấn đề nâng lên mức như thế nào, ra làm sao, thì hai nước phải tính toán, xuất phát từ lợi ích của bản thân mình, rồi bàn cờ chiến lược trên thế giới, rồi khả năng hiện thực v.v. Tính toán rất nhiều mặt, cũng không nên quá tâm tư về chuyện đó, mà hãy nhìn vào thực chất của các mối quan hệ.

Nhân đây, tôi cũng phải nói là hiện có một số người kỳ vọng quá mức vào mối quan hệ với nước này, nước kia. Mình phải biết được vị thế của mình đang ở đâu. Phải rất thực tế, xuất phát từ lợi ích trước mắt và lâu dài của dân tộc mà tính toán, xem xét các mối quan hệ, chứ không phải ngẫu hứng được. Phải dựa vào nội lực của mình là chính, đừng trông đợi vào người này, người kia che chở cho mình. Trong quá khứ Việt Nam đã từng nằm trên bàn cờ chiến lược của nước này, nước kia rồi. Vì vậy, nếu có nằm trên bàn cờ thế giới thì cũng phải  là con xe, con pháo, con mã, chứ không thể biến mình thành con tốt được.

Đừng có kỳ vọng là ai đến cứu mình nếu mình không tự cứu mình. Trước hết chúng ta phải tự mình thay đổi mình. Ví dụ: về kinh tế, nếu mình không khắc phục những cái khó khăn nội tại đi, đổi mới thể chế đi, làm ăn cho tử tế đi… Nếu bản thân mình không phát triển được thì chả ai cứu được mình đâu. Quan hệ quốc tế là điều kiện cần, rất cần, nhưng chưa đủ. Mà cái đủ phải là nội lực kia. Mình hãy đi trên đôi chân của mình và suy nghĩ, tính toán bằng cái đầu của mình, cái đầu mình không tỉnh táo, cái chân mình không vững thì chắc chả ai cần đến mình đâu và chắc chả ai cứu được mình đâu.

Gin hay quốc lủi đều là rượu cả!

Trong đàm phán quốc tế, các bên đưa ra những điều kiện cũng là chuyện bình thường. Trong chuyến thăm sắp tới chắc Tổng thống Mỹ cũng sẽ có những điều kiện và một trong những điều kiện lâu nay họ vẫn đưa ra là “vấn đề nhân quyền”. Thưa ông,  liệu đây có phải là vướng mắc lớn nhất hiện nay trong quan hệ Việt Nam với Mỹ hay không?

- Đây là một vấn đề khác biệt. Tuy nhiên tôi không nghĩ là vướng mắc lớn nhất, chí ít thì, trong chuyến thăm Mỹ hồi năm ngoái của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong tuyên bố chung, đã có một câu rất quan trọng có thể nói là “cái đinh” của vấn đề. Đó là “hai bên tôn trọng thể chế chính trị của nhau”. “Tôi” quý “anh”, mặc dù  hai bên có thể khác biệt vì sự lựa chọn thể chế. “Tôi” không chống lại chế độ của Mỹ, chuyện đó là của nước Mỹ, của nhân dân Mỹ quyết định. Thế thì của “tôi” thế nào thì “anh” cũng đừng can gián vào chứ. Chuyện thể chế của Việt Nam là do người Việt Nam quyết định. Điều cốt lõi như thế đã được cam kết rồi.

Quyền sinh ra, quyền sống và quyền được mưu cầu hạnh phúc là quyền thiêng liêng nhất của con người. Đó là giá trị chung của nhân loại, chứ không phải là câu chuyện của riêng ai. Chúng ta đấu tranh, rồi đổ bao nhiêu xương máu cũng là để đạt được điều đó. Trong Tuyên ngôn độc lập Bác đã nói như thế nào, mọi người đều nhớ rất rõ. Thế rồi trong Hiến pháp năm 1946 được minh định như thế nào? Hiến pháp năm 2013 ghi thế nào? Đâu có phải là chúng ta đi ngược lại giá trị nhân quyền của nhân loại. Tuy nhiên nó đi từng bước, phải phù hợp với truyền thống, trong từng thời điểm, ở những điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Nhiều người nước ngoài cũng hay hỏi về vấn đề này. Tôi nói, người Mỹ thích uống rượu Gin, người Nga thích Vodka, trong khi đó người Việt Nam lại thích uống rượu quốc lủi. Rượu nào cũng là rượu cả, đều có chất cồn. Khác nhau là mỗi người uống theo một kiểu thôi. “Tôi” không chống “anh” thích Gin, thì “anh” cũng không nên bài xích “tôi” thích quốc lủi. Rồi thì thức ăn cũng đều là thịt, cá, mì, gạo, rau cả, nhưng mỗi nước có kiểu chế biến, xào nấu khác nhau, thành ra các món ăn khác nhau thôi.

Vấn đề nhân quyền cũng vậy thôi, chính câu trong Tuyên ngôn độc lập của Tổng thống Jefferson viết Bác Hồ đã trích dẫn lại trong bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam đấy thôi. Như thế là gặp nhau ở giá trị chung, còn thể hiện nó như thế nào thì mỗi nước một hoàn cảnh. Vì vậy, khi người Mỹ người ta đưa ra yêu cầu đó cũng là chuyện bình thường và chúng ta bình tĩnh đối thoại với họ để đi đến hiểu nhau hơn.

Tôi hơi ngạc nhiên khi có quan chức cứ hỏi tôi: “Mình phải đối phó với vấn đề này như thế nào?”. Ơ, lạ nhỉ? Sao lại là đổi phó? Đấy là chuyện tự mình thấy phải phấn đấu cho nhân dân mình được hưởng những quyền đó chứ. Chẳng lẽ mình không muốn cho nhân dân được hưởng nhân quyền à? Mình đưa vào Hiến pháp rồi. Thậm chí gần đây chúng ta đã có những quy định rất tiến bộ như quyền “im lặng” chẳng hạn, thì đó là những cái tự mình làm chứ có phải bị ai ép làm đâu. Chuyện Mỹ áp đặt là chuyện của họ cứ làm, chuyện của mình thì mình phải phấn đấu cho nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ, quyền mưu cầu hạnh phúc- đó là mục tiêu của chúng ta cơ mà.

Mỹ không để Trung Quốc muốn làm gì thì làm

Hiện nay có một luồng ý kiến cho rằng sở dĩ Trung Quốc có những hành động hết sức phiêu lưu và đang từng bước tiến tới khống chế Biển Đông là vì họ căn cứ vào nhiều yếu tố, nhưng trong đó có hai yếu tố quan trọng nhất, đó là họ cho rằng Việt Nam đang “lừng khừng” trong việc lựa chọn quan hệ. Thứ hai, nhiệm kỳ bầu cử Tổng thống Mỹ sắp đến rồi, nước Mỹ đang tập trung cho đối nội, ít dám tăng cường sức lực tại Biển Đông. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

- Trước hết, không thể nói Việt Nam đang “lừng khừng” không biết mình đang làm gì và đang đứng ở đâu trong mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong mối quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ, Việt Nam- Trung Quốc.  Đây là sự tính toán, cân nhắc kỹ càng chứ đừng gọi cái đó là “lừng khừng”. Làm ngoại giao không ngẫu hứng được đâu, mà trong các mối quan hệ quốc tế thì phải tính toán làm sao để có lợi nhất cho mình. Có những điều tính toán không thể nói rộng ra được, vì thế mới có những người lợi dụng vào đó để kích động, nói là Việt Nam không dám bày tỏ quan điểm của mình.

Làm thế nào để bảo vệ được độc lập, chủ quyền, bảo vệ được sự ổn định để phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay là bài toán cực kỳ khó, phải cân nhắc rất kỹ chứ đâu có phải chuyện “lừng khừng” hay “không lừng khừng”. Suốt ngày họp lên họp xuống, tính toán đủ các nhân tố có thể thế này, có thể thế kia, chứ đâu chỉ ngồi mà “lừng khừng” đâu.

Vấn đề thứ hai, có đúng là Mỹ đang phải tập trung vào vấn đề đối nội như bầu cử Tổng thống mà không tỏ thái độ cứng rắn với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông hay không? Tôi khẳng định là không! Chả thấy họ “lừng khừng” gì cả. Quốc hội Mỹ cũng tỏ thái độ. Thượng viện cũng tỏ thái độ. Hạ viện cũng tỏ thái độ. Phía chính quyền thì Tổng thống Obama cũng tỏ thái độ, Ngoại trưởng cũng tỏ thái độ, Bộ trưởng Quốc phòng cũng tỏ thái độ... Rồi họ tính đến điều này, điều kia, đi chỗ này đi chỗ kia để tuyên bố, để bày tỏ thái độ cứng rắn với các hành động đe dọa nghiêm trọng an ninh Biển Đông.

Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama cũng là biểu hiện mối quan tâm của họ. Họ có tính toán chiến lược của họ, còn họ làm đến đâu thì họ phải cân nhắc kỹ lưỡng tới lợi ích rộng lớn của họ. Nên nhớ rằng, Mỹ là cường quốc số 1 trên thế giới và lợi ích của họ là lợi ích toàn cầu chứ không phải lợi ích riêng với  Việt Nam.

Thưa ông, chúng ta không khuyến khích tư tưởng cực đoan, càng không có chủ trương kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhưng đang có một thực tế là hiện nay người Việt Nam rất “dị ứng” với người Trung Quốc. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?

- Đường lối ngoại giao của chúng ta với Trung Quốc là rất rõ ràng: hai nước láng giềng hữu nghị với nhau, cùng nhau hợp tác phát triển. Không thể khác được, dù có thế này, thế khác thì chúng ta vẫn phải sống cạnh Trung Quốc, giống như sống với Lào và Campuchia thôi. Láng giềng, làng xóm cho dù có lủng củng, có lúc “ném rác” sang nhà nhau thì rồi cuối cũng cũng phải dàn xếp với nhau mà sống chứ.

Chúng ta cũng hiểu được nước ta so với Trung Quốc là nước nhỏ. Thế nên ông cha ta ngày xưa, mỗi lần quân Trung Quốc sang xâm lược, đánh đuổi giặc xong rồi chúng ta lại sang giàn hòa ngay. Đấy là cái khôn khéo của một nước nhỏ cạnh một nước lớn. Hàng ngàn năm nay chúng ta đã cư xử như vậy. Chúng ta bây giờ cũng như vậy, muốn cuộc sống hòa bình, hữu nghị với Trung Quốc, chúng ta phấn đấu rất nhiều, cố “nghiến răng” lại quên đi những đau xót do chiến tranh gây ra. Chiến tranh biên giới năm 1979 không đau xót hay sao? Chiến tranh Tây Nam không đau xót hay sao? Nhưng rồi chúng ta phải gác chuyện đó lại để phát triển quan hệ hữu nghị với họ vì sự phát triển của dân tộc ta.

Còn tâm lý của nhiều người Việt Nam bây giờ hễ cứ nhắc tới Trung Quốc là người ta “dị ứng”. Đó là điều có thật, mặc dù không ai muốn như vậy cả. Chúng ta thử đặt vấn đề thế này: tại sao người Pháp, người Nhật xâm lược nước ta, ta chiến thắng, ta cư xử với tù binh, bệnh binh của Nhật, Pháp rất nhân đạo, tử tế. Rồi với phí công Mỹ bị bắt chúng ta cũng cư xử nhân đạo, mặc dù họ ném bom sát hại nhiều người dân thường Việt Nam. Nhưng chiến tranh kết thúc, quan hệ được thiết lập, người Việt Nam đâu có “thù ghét” người Pháp, người Nhật, người Mỹ.

Thế thì cái gì nó cũng có hai mặt của nó. Chúng ta không khuyến khích chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhưng cũng phải nhìn lại xem phía Trung Quốc đã cư xử với chúng ta như thế nào. Miệng họ nói hữu hảo, nhưng họ lại đi chiếm lãnh thổ của chúng ta. Vì vậy Trung Quốc cũng phải có một chính sách như thế nào đó để tôn trọng dân tộc chúng ta, tôn trọng chủ quyền của chúng ta, nếu không thì làm sao ai cấm được người dân Việt Nam cứ “dị ứng” khi nhắc đến Trung Quốc.

Xin cám ơn ông!