Sẵn sàng triển khai IPv6 ở mức cao nhất trong khu vực
Mức độ sẵn sàng IPv6 của Việt Nam đang được đánh giá ở mức cao trong khu vực và tiếp tục có bước phát triển tốt. Theo thống kê của Trung tâm Thông tin mạng châu Á – Thái Bình Dương (APNIC), chỉ số truy cập qua IPv6 của Internet Việt Nam tăng trưởng rõ rệt. Tính đến tháng 3/2017, tỉ lệ truy cập qua IPv6 của Việt Nam đạt khoảng 6%, thời điểm cao nhất lên tới 25% (nguồn APNIC) với hơn 2.500.000 người dùng IPv6 (Nguồn phòng Lab Cisco), hiện Việt Nam vượt lên đứng thứ 2 khu vực ASEAN (sau Malaysia), thứ 5 khu vực châu Á (sau Ấn Độ, Nhật Bản, Malaysia và Ả Rập Saudi).
Gần đây, hoạt động triển khai IPv6 có những bước chuyển mình rõ rệt với tỉ lệ ứng dụng IPv6 toàn cầu tăng trưởng mạnh. Đáng chú ý là sau thời điểm ngày 07/11/2016 khi Ban Kiến trúc Internet của IETF (Internet Architecture Board - IAB) ra thông báo đề nghị IETF không yêu cầu bắt buộc hỗ trợ IPv4 trong các tiêu chuẩn, thủ tục Internet mới và tập trung vào hoạt động với IPv6; hoạt động triển khai IPv6 ở nhiều quốc gia đã có những bước tiến vượt bậc. Thực tế này cho thấy một minh chứng ngày rõ ràng, là trong thời gian tới, Internet sẽ hoạt động với IPv6 thay vì địa chỉ IPv4.
Theo thống kê của Google, tỉ lệ truy cập vào mạng Google qua IPv6 tăng trưởng mạnh từ 10% vào tháng 1/2016 lên khoảng 16% vào tháng 1/2017. Kết quả này tiếp tục khẳng định bước phát triển vững chắc của nền tảng công nghệ IPv6 trong xu thế công nghệ Internet của vạn vật (Internet of Things): ứng dụng IPv6 đóng vai trò quan trọng trong tương lai phát triển Internet và IPv6 thực sự là thủ tục phục vụ định danh toàn cầu cho tất cả các thiết bị gắn với mạng Internet.
Hòa chung bước chuyển mình của Internet, IPv6 toàn cầu, Việt Nam đã và đang có những bước tiến dài để hướng tới mục tiêu tổng thể quốc gia là Internet Việt Nam hoạt động an toàn và đáng tin cậy trên nền tảng công nghệ IPv6 vào năm 2019.
Ấn tượng các chỉ số về mức độ ứng dụng IPv6 của Việt Nam
Theo thống kê của APNIC, chỉ số IPv6 của Việt Nam tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt kể từ sau Ngày IPv6 Việt Nam (06/05/2016). Tính đến tháng 03/2017, tỉ lệ truy cập qua IPv6 của Internet Việt Nam đạt khoảng 6%, thời điểm cao nhất lên tới 25%, hiện Việt Nam vượt lên đứng thứ 2 khu vực ASEAN (sau Malaysia), thứ 5 khu vực châu Á (sau Ấn Độ, Nhật Bản, Malaysia và Ả-rập Xê-út).
Theo thống kê của phòng Lab Cisco, chỉ số tỉ lệ người dùng IPv6 của Việt Nam cũng tăng trưởng tốt trên 5% (gần2,5 triệu người sử dụng IPv6), vượt xa mục tiêu 1 - 2% đặt ra tại Hội thảo Ngày IPv6 Việt Nam 2016.
Tuy nhiên, hiện nay, mức độ ứng dụng IPv6 trong dịch vụ nội dung của Việt Nam còn khá thấp. Theo thống kê của phòng Lab Cisco, số lượng Website sẵn sàng IPv6 của Việt Nam đạt khoảng 117 Website, gấp 2 lần so với đầu năm 2016; nhưng số lượng Website cung cấp dịch vụ nội dung và các ứng dụng online chạy IPv6 chưa nhiều. Nhiệm vụ này sẽ được đẩy mạnh và là một trong các mục tiêu chính trong năm 2017 của Ban Công tác thúc đẩy phát triển IPv6 quốc gia.
Ngày 06/5/2013, nhân sự kiện Ngày IPv6 Việt Nam 2013, Mạng IPv6 quốc gia gồm Mạng DNS quốc gia và Trạm trung chuyển Internet quốc gia (VNIX) trên IPv6 được khai trương và là nền tảng vững chắc cho công tác triển khai IPv6 ở Việt Nam với 9 ISP kết nối qua IPv6. Năm 2016, số lượng doanh nghiệp kết nối VNIX qua IPv6 tăng thêm 2 đơn vị , nâng tổng số doanh nghiệp có kết nối IPv6 lên 11/19 ISP.
Hệ thống Mạng IPv6 quốc gia được quản lý, vận hành an toàn, liên tục, cung cấp cho cộng đồng và các thành viên kết nối các dịch vụ cơ bản trên nền IPv6, nhằm khuyến khích và thúc đẩy việc ứng dụng địa chỉ IPv6 tại Việt Nam gồm: DNS, DNS cache, DNS Hosting, Web … Thống kê công tác triển khai IPv6 từ Mạng IPv6 quốc gia cho thấy tỉ lệ truy vấn qua bàn ghi AAAA qua hệ thống DNS quốc gia cũng tăng trưởng tốt từ 17,5% năm 2015 lên 19,5% vào 31/10/2016. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng ở toàn mạng Internet Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động cung cấp dịch vụ thực tế của doanh nghiệp. Mức độ triển khai IPv6 của doanh nghiệp phản ánh việc sẵn sàng IPv6 của Việt Nam. Vậy doanh nghiệp Internet Việt Nam đang ở đâu trong công tác triển khai IPv6?
Bước sang Giai đoạn 3 (2016-2019) của Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6, hoạt động triển khai IPv6 của Việt Nam đã có bước tăng trưởng rõ rệt. Kết quả này có được do một số doanh nghiệp đã triển khai cung cấp dịch vụ IPv6 tới người sử dụng. Tiêu biểu là hoạt động triển khai IPv6 của FPT Telecom, với hơn 800.000 khách hàng hộ gia đình sử dụng dịch vụ FTTH trên nền tảng IPv6. Bản đồ IPv6 Việt Nam cũng ghi nhận thêm đóng góp của một số doanh nghiệp khác như: Viettel CHT, Long Vân, NetNam, NITECO, CMC Telecom, SUPERDATA, Ảo hóa Việt, VNPT …
Top 20 các đơn vị triển khai IPv6 tiêu biểu tại Việt Nam
STT |
Số hiệu mạng |
Tổ chức/doanh nghiệp |
IPv6 Capable |
IPv6 Preferred |
Samples |
1 |
AS23902 |
Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) |
66.22% |
62.16% |
74 |
2 |
AS18403 |
Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) |
31.44% |
29.28% |
4,361,964 |
3 |
AS38731 |
Công ty TNHH Viettel – CHT (VTDC) |
5.87% |
2.28% |
1,975 |
4 |
AS131414 |
Công ty Cổ phần giải pháp mềm Long Vân (LVSOFT) |
3.09% |
1.03% |
97 |
5 |
AS24176 |
Chi nhánh Công ty Cổ phần NetNam Hồ Chí Minh |
1.90% |
1.69% |
8,284 |
6 |
AS24173 |
Công ty Cổ phần NetNam |
0.93% |
0.91% |
5,160 |
7 |
AS131380 |
Công ty TNHH Niteco Việt Nam |
0.87% |
0.00% |
115 |
8 |
AS38732 |
Công ty Cổ phần Viễn thông CMC |
0.50% |
0.47% |
3,823 |
9 |
AS45903 |
Công ty Cổ phần Viễn thông CMC |
0.21% |
0.19% |
278,403 |
10 |
AS45544 |
Công ty TNHH Siêu dữ liệu trực tuyến |
0.14% |
0.00% |
699 |
11 |
AS131427 |
Công ty TNHH Dịch vụ Quảng cáo Ảo hóa việt |
0.14% |
0.00% |
693 |
12 |
AS7643 |
Tập đoàn VNPT |
0.12% |
0.01% |
20,730 |
13 |
AS131429 |
Tổng Công ty Viễn thông Mobifone |
0.07% |
0.03% |
41,029 |
14 |
AS38248 |
Tổng Công ty Truyền thông Đa phương tiện VTC |
0.07% |
0.07% |
1,371 |
15 |
AS38247 |
Công ty Cổ phần Viễn thông di động Vietnamobile |
0.05% |
0.05% |
1,827 |
16 |
AS45899 |
Tập đoàn VNPT |
0.04% |
0.04% |
8,985,538 |
17 |
AS131386 |
Công ty Cổ phần giải pháp hệ thống Long Vân |
0.04% |
0.00% |
2,601 |
18 |
AS7552 |
Tập đoàn Viettel |
0.02% |
0.02% |
5,089,730 |
19 |
AS45557 |
Công ty cổ phần Công nghệ và Truyền thông Việt Nam |
0.02% |
0.02% |
5,775 |
20 |
AS24086 |
Tập đoàn Viettel |
0.01% |
0.01% |
1,681,306 |
(Nguồn: APNIC, 20/3/2017)
FPT Telecom hiện là doanh nghiệp dẫn đầu Việt Nam trong hoạt động cung cấp dịch vụ IPv6 tới người sử dụng. Tham gia hoạt động về IPv6 từ năm 2012, FPT Telecom sớm nghiên cứu để chuyển đổi hệ thống hạ tầng, mạng lưới đi đến sẵn sàng cung cấp dịch vụ trên nền tảng công nghệ IPv6. Đến nay, FPT Telecom đã cung cấp dịch vụ IPv6 thành công cho hơn 800.000 khách hàng hộ gia đình sử dụng dịch vụ FTTH.
Phân mảng nội dung và dịch vụ ứng dụng online, FPT Telecom đã chuyển đổi 100% Webiste chạy trên nền tảng IPv6. Số lượng truy vấn dịch vụ nội dung vào các Website của FPT Telecom đã đạt các con số đáng kể, với gần 1.000.000 người truy cập mỗi ngày. Các ứng dụng nội dung trên Fshare và FPT Play cũng đang được FPT Telecom tiếp tục triển khai với địa chỉ IPv6 mang những trải nghiệm mới cho người sử dụng.
Hiện tại, tỉ lệ ứng dụng IPv6 trong mạng FPT Telecom đạt khoảng 23% và đứng thứ 18 trong sốdoanh nghiệp cung cấp dịch vụ IPv6 tiêu biểu toàn cầu (tính đến ngày 8/3/2017, nguồn World IPv6 Launch). Năm 2017, FPT Telecom sẽ tiếp tục mở rộng việc cung cấp dịch vụ IPv6 cho khách hàng và các ứng dụng nội dung khác.
NetNam là đơn vị có hoạt động triển khai IPv6 từ rất sớm, nhưng thiếu đột phá nên không giữ được vị trí dẫn đầu trong hoạt động cung cấp dịch vụ IPv6 tới người sử dụng. Theo thống kê của APNIC, năm 2014, chỉ số truy cập IPv6 của NetNam có tỉ lệ rất cao. Đầu năm 2017, lưu lượng IPv6 xuất phát từ mạng NetNam xuất hiện trở lại, có thời điểm tỉ lệ IPv6 đạt đáng kể. Hiện NetNam đã có 7 Website sẵn sàng và dán nhãn IPv6 Ready Logo, duy trì 324 khách hàng dịch vụ Tunnel; năm 2017, NetNam sẽ tập trung cung cấp dịch vụ IPv6 như dịch vụ DNS, Hosting, Leasedline, wifi cho người sử dụng.
Tập đoàn VNPT, Tập đoàn Viettelhiện đang cung cấp dịch vụ Internet, di động cho phần lớn người dùng Internet ở Việt Nam. Việc chuyển đổi IPv6 và triển khai cung cấp dịch vụ tới người sử dụng của hai tập đoàn này đóng vai trò quan trọng để hoàn thành mục tiêu quốc gia về IPv6. Hiện nay, Tập đoàn VNPT và Tập đoàn Viettel đều triển khai khá chậm với tỉ lệ truy cập qua IPv6 dưới 1% (theo thống kê của APNIC).
Tuy nhiên, theo như kế hoạch của Tập đoàn VNPT, Tập đoàn Viettel chia sẻ trong chương trình làm việc với Ban Công tác thúc đẩy phát triển IPv6 quốc gia, trong năm 2017: Tập đoàn VNPT sẽ chuyển đổi và cung cấp dịch vụ Internet, dịch vụ 4G LTE trên nền tảng công nghệ IPv6 cho khách hàng; Tập đoàn Viettel mở rộng triển khai cung cấp dịch vụ IPv6 cho 28 tỉnh, thành phố, đặc biệt là các dịch vụ băng rộng cố định, 4G LTE, Hosting IDC, Cloud server.... Nếu thực hiện theo đúng kế hoạch đặt ra, biểu đồ tỉ lệ truy cập IPv6 qua mạng của Viettel và mạng VNPT dự kiến sẽ nhảy vọt trong cuối năm 2017.
IPv6 phát triển nhanh nhưng chưa ổn định
Hoạt động giao thức IPv6 trên hệ thống Internet đang là chủ đề mới được nhiều quốc gia quan tâm. Theo thống kê của APNIC, hoạt động giao thức IPv6 so với IPv4 có sự khác nhau giữa các quốc gia và giữa các khu vực trên toàn cầu. Nhìn chung, khu vực châu Âu và Bắc Mỹ, giao thức IPv6 đang chiếm ưu thế về tốc độ truy vấn trên mạng Internet so với giao thức IPv4, ngược lại, khu vực châu Á có chỉ số hoạt động của IPv6 chậm hơn IPv4. Điều này cho thấy, các quốc gia triển khai sớm IPv6 và đi vào ổn định thường có chỉ số IPv6 tốt hơn IPv4, khi đó chỉ số RTT (Round Trip Times) sẽ mang giá trị âm (màu càng xanh).
Đối với Việt Nam, hoạt động triển khai IPv6 có bước đi chậm hơn thế giới, nhưng chung ta đang đẩy mạnh và kết quả được chứng minh thông qua chỉ số IPv6 của Việt Nam. Chỉ số hoạt động của IPv6 so với IPv4 của Việt Nam hiện đang dao động, một số thời điểm có giá trị dương (IPv6 chậm hơn IPv4), một số thời điểm lại mang giá trị âm (IPv6 nhanh hơn IPv4).
Nếu xét tổng thể khoảng thời gian trong một năm qua, phần lớn thời gian IPv6 của Việt Nam có tốc độ nhanh hơn IPv4, nhưng chưa ổn định. Đây là vấn đề và cũng là mục tiêu chung để các đơn vị, doanh nghiệp có bước triển khai dịch vụ IPv6, vừa tăng trưởng về số lượng và vừa bảo đảm tính ổn định, hướng tới mục tiêu tổng thể quốc gia là Internet Việt Nam hoạt động an toàn và đáng tin cậy trên nền tảng công nghệ IPv6.
Với nỗ lực bền bỉ thúc đẩy phát triển IPv6 quốc gia và sự hưởng ứng thực tế của doanh nghiệp, mức độ sẵn sàng IPv6, Việt Nam đã có bước khởi sắc đáng kể trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tỉ lệ ứng dụng IPv6 của Việt Nam còn thấp so với tỉ lệ trung bình chung của trên thế giới và vẫn còn những điểm tồn tại cần giải quyết để đảm bảo có thể thực hiện được mục tiêu kế hoạch. Với sự nỗ lực chung của các doanh nghiệp, sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông, có cơ sở để tin rằng hoạt động triển khai IPv6 của Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được nhiều kết quả tốt đẹp phản ánh thông qua mức độ sẵn sàng IPv6 của Việt Nam trên bản đồ IPv6 toàn cầu.
Địa chỉ IPv6 (Internet protocol version 6) là thế hệ địa chỉ Internet phiên bản mới được thiết kế để thay thế cho phiên bản địa chỉ IPv4 trong hoạt động Internet. Địa chỉ IPv4 có chiều dài 32 bít, biểu diễn dưới dạng các cụm số thập phân phân cách bởi dấu chấm, ví dụ 203.119.9.0. IPv4 là phiên bản địa chỉ Internet đầu tiên, đồng hành với việc phát triển như vũ bão của hoạt động Internet trong hơn hai thập kỷ vừa qua. Với 32 bit chiều dài, không gian IPv4 gồm khoảng 4 tỉ địa chỉ cho hoạt động mạng toàn cầu.
Do sự phát triển như vũ bão của mạng và dịch vụ Internet, nguồn IPv4 dần cạn kiệt, đồng thời bộc lộ các hạn chế đối với việc phát triển các loại hình dịch vụ hiện đại trên Internet. Phiên bản địa chỉ Internet mới IPv6 được thiết kế để thay thế cho phiên bản IPv4, với hai mục đích cơ bản:
- Thay thế cho nguồn IPv4 cạn kiệt để tiếp nối hoạt động Internet.
- Khắc phục các nhược điểm trong thiết kế của địa chỉ IPv4.
Địa chỉ IPv6 có chiều dài 128 bít, biểu diễn dưới dạng các cụm số hexa phân cách bởi dấu ::, ví dụ 2001:0DC8::1005:2F43:0BCD:FFFF. Với 128 bít chiều dài, không gian địa chỉ IPv6 gồm 2128 địa chỉ, cung cấp một lượng địa chỉ khổng lồ cho hoạt động Internet.
Nguồn:Trung tâm Internet Việt Nam