Tại sao tăng trưởng kinh tế vẫn chưa chậm lại, mặc dù chính phủ các nước đã "hãm phanh"

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

VietTimes – Các hiệu ứng từ đại dịch COVID-19 cùng các gói kích thích của chính phủ đã làm giảm tác động của các đợt nâng lãi suất.

Tại sao tăng trưởng kinh tế vẫn chưa chậm lại, mặc dù chính phủ các nước đã "hãm phanh"

Các ngân hàng trung ương trên thế giới đã chạy đua với tốc độ phi thường trong năm qua để giảm lạm phát, nhưng nỗ lực đó được chứng minh là vẫn chưa đủ - ít nhất là cho tới nay. Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn duy trì ở mức cao và áp lực giá vẫn tồn tại tại nhiều quốc gia giàu có, mặc dù lãi suất đã được nâng lên.

Vậy tại sao đà tăng trưởng và lạm phát vẫn chưa chậm lại? Hầu hết các chuyên gia giải thích rằng, đó là do những hiệu ứng kỳ lạ của đại dịch COVID-19 và thời gian cần có để các đợt nâng lãi suất tác động tới hoạt động của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường lao động mạnh mẽ đã thúc đẩy tăng lương và chi tiêu tiêu dùng.

4.png
Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ và khu vực eurozone thấp kỷ lục (Ảnh: IMF)

Đầu tiên, bản chất bất thường của cuộc suy thoái mà COVID-19 gây ra trong năm 2020 và đà hồi phục sau đó đã làm giảm tác động của các đợt nâng lãi suất. Trong năm 2020 và 2021, Mỹ và chính phủ các nước khác đã bơm hàng nghìn tỉ USD hỗ trợ tài chính các hộ gia đình, và các hộ gia đình này cũng tiết kiệm tiền khi đại dịch làm gián đoạn các hoạt động chi tiêu thông thường. Trong khi đó, lãi suất cực thấp mà các ngân hàng trung ương áp dụng lúc đó cho phép doanh nghiệp và người tiêu dùng được hưởng chi phí vay mượn thấp.

Các hộ gia đình và doanh nghiệp trong những tháng gần đây vẫn tiếp tục chi tiêu mạnh tay. Nhiều hộ gia đình đã bắt đầu sử dụng tiết kiệm của họ, được tăng lên nhờ sự gia tăng đáng kể về thu nhập. Các doanh nghiệp vẫn tiếp tục thuê lao động vì tình trạng thiếu lao động do đại dịch gây ra và nhờ lợi nhuận lớn.

“Đơn giản là có rất nhiều lực lượng có từ thời COVID-19 đang chống lại chu kỳ thắt chặt này”, Tom Barkin, Chủ tịch Fed Richmond, nói với các phóng viên trong tuần trước.

im-806018.jpg
Chủ tịch Fed Jerome Powell (Ảnh: Zuma)

Hai ngành vốn nhạy cảm với lãi suất – ô tô và xây dựng – đã cho thấy ví dụ.

Tình trạng thiếu chip bán dẫn do đại dịch đã hạn chế nguồn cung ô tô, dẫn đến việc nhiều người mua sẵn sàng trả giá cao hơn để mua số lượng xe ô tô sẵn có. Mặc dù lượng nhà ở hộ gia đình được xây dựng ở Mỹ trong năm ngoái đã sụt giảm, nhưng hoạt động tuyển mộ trong ngành này vẫn tăng trong 12 tháng qua. Đà tăng trưởng việc làm mạnh mẽ hiện nay là do những "nút thắt cổ chai" chuỗi cung ứng, khiến cho thời gian cần thiết để hoàn thiện nhà ở bị kéo dài, và số lượng căn hộ được xây dựng tăng kỷ lục, mất nhiều thời gian hơn để hoàn thiện.

Hoạt động xây dựng nhà ở cho một hộ gia đình ở Mỹ gần đây đã phục hồi nhờ vào số lượng nhà rao bán sẵn có giảm xuống mức thấp kỷ lục. Nhiều hộ gia đình được tái rót vốn trong giai đoạn đại dịch và được hưởng lãi suất thế chấp thấp – bởi vậy họ có lý do để không bán nhà. “Tôi không hoàn toàn dự báo được rằng lãi suất phải chuyển động như thế nào mới có thể thuyết phục người dân rao bán nhà của họ ra thị trường”, ông Barkin nói.

3.png
Thanh toán lãi nợ của hộ gia đình tính theo tỷ lệ đối với thu nhập cá nhân khả dụng (Ảnh: Fed)
2.png
Nợ của khu vực tư nhân tính trên GDP (Ảnh: Fed)

Thông thường, những đợt nâng lãi suất của Fed sẽ buộc những người tiêu dùng và doanh nghiệp nặng nợ phải kiềm chế chi tiêu bởi họ phải thanh toán tiền lãi nhiều hơn. Nhưng trong suốt 2 năm vừa qua, người tiêu dùng không vay nợ quá mức; các khoản thanh toán lãi nợ của hộ gia đình chỉ chiếm 9,6% thu nhập cá nhân khả dụng trong quý đầu năm nay, thấp hơn cả mức thấp nhất được ghi nhận trong giai đoạn từ năm 1980 đến khi đại dịch bắt đầu vào tháng 3/2020.

“Rất nhiều sự bất cân bằng mà bạn có thể dự đoán ở thời điểm này của chu kỳ, đơn giản là chúng chưa có thời gian để hình thành”, Matthew Luzzetti, kinh tế trưởng khu vực Mỹ đến từ Deutsche Bank, cho hay.

Thứ hai, chi tiêu của chính phủ tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng, giảm bớt những cú sốc kinh tế được xem là ít nghiêm trọng hơn so với dự kiến. Mặc dù khủng hoảng năng lượng ở châu Âu đã đẩy khu vực này vào một cuộc suy thoái nhẹ trong mùa Đông, nhưng họ đã tránh được đà suy giảm mạnh như một số chuyên gia phân tích dự báo. Chính phủ các nước châu Âu đã cam kết khoản tiền 850 tỉ USD để thúc đẩy chi tiêu.

im-806036.jpg
Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen và các quan chức khác thảo luận về biện pháp giảm nhu cầu khí đốt (Ảnh: Getty)

Năm nay, giá dầu và khí tự nhiên giảm đã thúc đẩy đà tăng trưởng kinh tế bằng cách "thêm tiền vào ví" của người tiêu dùng, thúc đẩy niềm tin và giảm sức ép đối với ngân sách chính phủ. Giá một thùng dầu đã giảm một nửa trong năm ngoái, từ khoảng 120 USD xuống dưới 70 USD – thấp hơn mức trước khi cuộc chiến ở Ukraine bùng nổ khiến giá tăng mạnh.

Nền kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại đã hỗ trợ hoạt động của nhiều đối tác thương mại của nước này, trong khi đà tăng trưởng trong nước suy yếu lại khiến Bắc Kinh phải đưa ra biện pháp kích thích mới trong tháng này.

Ở Mỹ, chính sách tài khóa đã cung cấp thêm nhiều sức mạnh cho nền kinh tế trong năm nay. Nguồn vốn liên bang tiếp tục chảy vào từ gói cơ sở hạ tầng 1 nghìn tỉ USD của Tổng thống Joe Biden được phê duyệt năm 2021 cùng với 2 dự luật khác ký năm ngoái cung cấp hàng trăm tỉ USD để tăng cường sản lượng năng lượng tái tạo và sản xuất chất bán dẫn.

"Tảng đá lơ lửng trên đầu"

Thứ ba, cần có thời gian để lãi suất cao thẩm thấu vào nền kinh tế, làm giảm đà tăng trưởng và lạm phát. Ngân hàng Anh quốc đã nâng lãi suất lần đầu tiên từ mức 0 vào tháng 12/2021, trong khi Fed và Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) bắt đầu chu kỳ nâng lãi suất từ tháng 3/2022 và tháng 7/2022, theo thứ tự.

im-806028.jpg
Hoạt động xây dựng nhà tăng kỷ lục ở Mỹ thúc đẩy hoạt động tuyển mộ lao động (Ảnh: Getty)

Theo một số con số ước tính, 2/3 đợt nâng lãi suất của Fed chỉ phục hồi được lãi suất đến mức độ được xem là “không nhấn ga”, và 1/3 còn lại mới làm chậm nền kinh tế bằng cách “hãm phanh”. Nếu tính như trên thì kết quả của chính sách hiện tại mới chỉ hạn chế đà tăng trưởng trong vòng 8 hoặc 9 tháng, Chủ tịch Fed Atlanta Raphael Bostic viết trong một bài luận đăng tải trong tuần trước.

Chủ tịch Fed Chicago Austan Goolsbee đã so sánh tầm ảnh hưởng sắp xảy đến từ việc Fed nâng lãi suất 5 điểm phần trăm như "một tảng đá treo lơ lửng trên đầu". “Nếu các bạn tăng 500 điểm cơ bản trong một năm, liệu có một tảng đá lớn lơ lửng trên đầu sắp sửa rơi vào đầu chúng ta hay không?”, ông nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây.

Dario Perkins, Giám đốc điều hành tại công ty nghiên cứu TS Lombard, cho biết rằng lãi suất cao hơn đang làm giảm đà tăng trưởng theo những cách không rõ ràng, như làm cho các chủ doanh nghiệp cắt giảm các vị trí việc làm chưa được lấp đầy hoặc khiến các công ty từ bỏ việc mở rộng hoạt động. "Dường như chính sách tiền tệ này không có hiệu quả, nhưng thực tế lại cho thấy có", ông viết trong một báo cáo gần đây.

Chặng đường cuối cùng đầy thách thức

Một số ngân hàng trung ương có thể chưa làm đủ để làm giảm nhu cầu. Ví dụ, ECB nâng lãi suất cơ bản lên 3,5% trong tháng này, nhưng vẫn âm nếu như được điều chỉnh theo lạm phát.

1.png
Tỷ lệ lạm phát 12 tháng, đã trừ giá thực phẩm và năng lượng (Ảnh: Fed)

Nhiều nhà kinh tế học vẫn dự báo về một cuộc suy thoái có thể xảy ra trong vòng 6 – 18 tháng tới, có thể là do các đợt nâng lãi suất trong quá khứ hoặc những đợt nâng sắp tới.

Lãi suất sẽ lên cao tới mức nào là điều rất khó đoán do có nhiều tín hiệu hỗn loạn về hoạt động của nền kinh tế. Ở Mỹ, hoạt động tuyển mộ lao động vẫn sôi động, nhưng số giờ làm việc trung bình đã giảm trong tháng 5 và số người đệ đơn xin trợ cấp thất nghiệp của bang đã tăng trong những tuần gần đây lên mức cao nhất kể từ cuối năm 2021.

Giá năng lượng và hàng hóa tiêu dùng đã giảm, giúp lạm phát tại Mỹ giảm xuống còn 4% trong tháng 5, so với mức cao kỷ lục 9% được ghi nhận vào mùa Hè năm ngoái, theo dữ liệu CPI được công bố bởi Bộ Lao động Mỹ. Sự gia tăng giá cả đã được hạn chế. Trong tháng 5, dưới 50% tất cả các giá cả trong CPI đã tăng hơn 5%, giảm từ mức 80% của chỉ số này trong một thời điểm của năm ngoái.

Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương vẫn lo lắng bởi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lõi – đã trừ giá thực phẩm và năng lượng – giảm ít hơn kỳ vọng. Những con số này cho thấy khả năng dự đoán về lạm phát trong tương lai còn khó khăn hơn.

Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), một tổ chức gồm các ngân hàng trung ương, cảnh báo trong một báo cáo mới đây rằng giảm lạm phát xuống mức mục tiêu 2% mà nhiều ngân hàng đề ra có thể khó khăn hơn so với dự kiến.

Những lợi ích dễ dàng có được từ lạm phát giá năng lượng và giá thực phẩm đã được ghi nhận. Lạm phát cao duy trì càng lâu, người dân càng có khả năng điều chỉnh hành vi và củng cố nó, theo BIS. Trong viễn cảnh đó, các ngân hàng trung ương có thể nhận ra rằng họ cần phải "hãm phanh" nền kinh tế để buộc lạm phát xuống mức mục tiêu.

“Chặng đường cuối cùng có thể gây ra thách thức lớn nhất”, BIS cảnh báo./.

Theo Wall Street Journal