Vào cuối năm 2015, trong một kỳ họp báo, bộ Quốc Phòng Trung Quốc xác nhận hiện đang tự đóng những chiếc tầu sân bay đầu tiên cho mình. Như vậy đây cũng sẽ là chiếc thứ hai dành cho hải quân Trung Quốc (PLAN), sau khi chiếc Liêu Ninh đã đi vào hoạt động từ ngày 25/9/2012.
Ông Koh Swee Lean Collin, chuyên gia nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng, Khoa Nghiên cứu Quốc tế, thuộc trường Nanyang Technological University, Singapore, trên tạp chí Nhật Bản The Diplomat mới đây có bài giải mã về “Những tham vọng tàu sân bay của Trung Quốc”.
Thông báo của Trung Quốc hầu như không gây bất ngờ. Đã từ lâu giới truyền thông, học thuật và các nguồn tin tình báo đã có những bàn tán về chương trình tàu sân bay, mà Trung Quốc đặt tên "Dự án 001A". Cùng với việc thông báo này, tác giả đánh giá ít nhiều gì Bắc Kinh đã tỏ ra minh bạch hơn trong các chính sách quốc phòng của mình so với trước đây.
Chẳng hạn như công bố sách trắng quốc phòng và tổ chức họp báo thường kỳ. Tuy rằng các thông tin được công bố không mấy đầy đủ, nhưng chí ít từ với các nguồn thông tin rò rỉ đó, bằng ngả chính thống hay không, cũng đủ cho phép chúng ta có cái nhìn sơ bộ chính xác về những gì chiếc hàng không mẫu hạm tương lai có được.
Và trong một chừng mực nào đó, điều này cũng giúp Bắc Kinh kìm hãm bớt sự tò mò của cộng đồng khoa học và giới tình báo về những tham vọng tiềm tàng tàu sân bay của Trung Quốc. Một sự việc đã từng xảy ra cho chiếc tàu sân bay đóng dở dang Varyag của Nga-Xô cũ, mà sau này Bắc Kinh đã mua lại, rồi cho tân trang và trang bị lại trước khi bàn giao cho hải quân dưới tên gọi là Liêu Ninh vào năm 2012.
Dựa vào nhiều nguồn tin đa dạng, người ta có thể suy đoán về những hình dạng cũng các chức năng của chiếc tàu sân bay Trung Quốc đang đóng. Tuy nhiên, theo Diplomat nhiều chuyên gia đã đánh giá quá cao về tiến bộ công nghệ mà Trung Quốc có được trong chương trình tàu sân bay.
Chẳng hạn như có nhiều lời đồn thổi cho rằng chiếc hàng không mẫu hạm mới sẽ chạy bằng năng lượng hạt nhân, được trang bị ống phóng máy bay bằng hơi nước chứ không cần đường băng cất cánh như chiếc Liêu Ninh đang có. Thậm chí, tờ báo Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc còn tiết lộ là chiếc tàu mới sẽ được trang bị ống phóng máy bay bằng điện từ như chiếc hàng không mẫu hạm hiện đại nhất của Mỹ hiện nay, lớp Gerald R.Ford.
Thế nhưng, theo các tiết lộ chính thức gần đây, tàu sân bay tự đóng đầu tiên vẫn chạy bằng lực đẩy thông thường, và vẫn phải sử dụng đến đường băng cất cánh. Điều này chứng tỏ là các nỗ lực phát triển công nghệ máy phóng bằng hơi nước hay điện từ của Trung Quốc chưa chín muồi, đòi hỏi một công nghệ phức tạp hơn như ông Trương Quân Xã (Zhang Junshe), một nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Hải quân học của PLA, từng nói bóng gió đến.
Tác giả cho rằng Bắc Kinh chưa thể thực hiện một “cuộc cách mạng” công nghệ thật sự trong lĩnh vực tàu sân bay. Điều có thể chắc chắn là chiếc tàu mới sẽ được trang bị các bộ phận và hệ thống phụ đã được qua thử nghiệm và kiểm tra dựa trên những hiểu biết thu lượm được từ chiếc Liêu Ninh. Các hệ thống con đó sẽ được cải thiện và cách tân ở bên trong sao cho phù hợp với nhu cầu cụ thể của hải quân Trung Quốc.
Ở đây, điều mà ông Collins quan tâm nhiều nhất đó là: “Tổ hợp tác chiến hàng không mẫu hạm tương lai (Carrier Battle Group – CBG) sẽ có hình dạng như thế nào?"
Đầu tiên, tác giả lưu ý là một tàu sân bay có giá trị không thể hoạt động độc lập một mình, mà đó là cả một tổng thể tàu sân bay tác chiến CGB, bao gồm: tàu chiến hộ tống, lực lượng không quân cơ giới, và nguồn hỗ trợ hậu cần trên biển.
Đương nhiên là Bắc Kinh đang đi theo một chiến lược phối hợp trong việc phát triển một tàu sân bay tác chiến, khi chú ý đến việc làm sao phát huy hết năng lực của chiếc tầu mới này. Nỗ lực đó đã được lên kế hoạch từ lâu. Các lực lượng chiến đấu trên biển được thiết lập một cách ồ ạt từ việc đóng một loạt tầu khu trục tên lửa hành trình (Lư Dương (Luyang) II/III loại loại Type-052C/D và chiếc Giang Khải (Jiangkai) II Type-054A), lần lượt tối ưu hóa cho hạm đội phòng không và hệ thống chống tàu ngầm ASW tương ứng.
Hay như Trung Quốc cũng đang xây dựng các đội tàu hộ tống có khả năng đi biển đầy tham vọng loại Type-903 hay Type-901, có tải trọng từ 40-45 nghìn tấn.
Theo tác giả, tổ hợp tác chiến tàu sân bay của Mỹ (CSG) rất có thể là mô hình mà Trung Quốc đang hướng tới. Nhưng để đạt được điều này, Trung Quốc vẫn cần rất nhiều thời gian. Bởi vì, bộ phận không quân trên chiếc Liêu Ninh vẫn còn rất nhiều hạn chế về khả năng công nghệ so với các chiến đấu cơ trong tổ hợp tác chiến của Mỹ.
Chẳng hạn như, các thiết bị báo động sớm công nghệ chưa hoàn chỉnh, thiếu độ bền và khả năng cảm ứng để có thể cung cấp một sự yểm trợ cho hạm đội. Hay như hàng không mẫu hạm mới cũng như chiếc Liêu Ninh cũng chỉ thích ứng được cho những chiến đấu cơ loại Cá Mập Bay J-15 (Flying Shark) chứ chưa thể đáp ứng cho loại đa năng J-31 như mong muốn ban đầu.
Từ những quan sát trên, tác giả cho rằng, cách tiếp cận tổ hợp tác chiến của hải quân Trung Quốc có vẻ gần giống với hải quân Nga- Liên Xô, mang lại tính ưu việt cho các hoạt động của các máy bay tàu sân bay và nhấn mạnh vai trò đội tàu hộ tống đi kèm để chia sẻ gánh nặng phòng thủ và tấn công.
Mặc dù có những hạn chế nói trên của chiếc hàng không mẫu hạm mới được nhắm đến, tổ hợp tác chiến tương lai của hải quân Trung Quốc chắc chắn đang định hình nhờ vào ý chí chính trị to lớn và nguồn kinh phí dồi dào. Tổ hợp tác chiến này sẽ mở rộng các chọn lựa chiến lược có sẵn cho các nhà lãnh đạo chính trị Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra liệu hạm đội tàu sân bay của hải quân Trung Quốc sẽ được dùng như là một tài sản gây thanh thế hơn là cho một tính năng tác chiến thật sự. Dù cho tàu sân bay Trung Quốc sẽ có những tiến bộ ra sao, và tổ hợp tác chiến đó được hình thành như thế nào, điều cần phải biết là làm thế nào Bắc Kinh sẽ chọn cách sử dụng công cụ hải quân mới được khám phá này.
Theo Diplomat, trong khu vực vùng biển Tây Thái Bình Dương, tổ hợp tác chiến này CBG sẽ là phần bổ sung đáng kể vào kho vũ khí có sẵn đầy ấn tượng của hải quân Trung Quốc. Trong kịch bản xảy ra xung đột với Đài Loan, tổ hợp tác chiến của hải quân nước này có khả năng neo đậu tại phía đông hòn đảo trong một nỗ lực làm trì hoãn hay phá vỡ bất kỳ viện binh nào của Mỹ đến từ đảo Guam hay Hawai.
Cùng lúc đó một «mặt trận phía đông» cũng được mở ra bằng cách phối hợp với các đơn vị quân đội Trung Quốc trên đất liền tiến hành chiến dịch tấn công sườn tây Đài Loan. Viễn cảnh này được xem như một sự báo động đáng tin cậy, đến mức bộ Quốc phòng Đài Loan biến chúng thành một kịch bản chiến tranh về khả năng tàu sân bay hải quân Trung Quốc tham gia vào một cuộc xung đột giữa hai bên bờ eo biển.
Các hàng không mẫu hạm của PLAN cũng được xem như là một công cụ hữu ích trong bối cảnh tranh chấp lãnh hải hiện nay, như tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại các lực lượng Nhật Bản nằm trong vùng phụ cận với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Tuy nhiên, tổ hợp tác chiến đó rất có thể được dùng để phô trương trước các lực lượng tự vệ Nhật Bản, đặc biệt những lực lượng được triển khai xung quanh các đảo tây nam Nhật Bản và quân đội Mỹ đóng tại Nhật. Tính chất mở của vùng biển Đông Á tạo ra một cơ hội tuyệt vời cho các hoạt động của CGB. Nhưng điều này lại không đúng đối với trường hợp Biển Đông, một vùng biển nửa khép.
So với các lực lượng quân đội trên bộ được bố trí dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc, tổ hợp tác chiến đó có thể bị hạn chế tính năng và rất ít khả năng sống sót khi đối mặt với khả năng chống tiếp cận khu vực chủ yếu đến từ một số đối thủ Đông Nam Á của Trung Quốc, đặc biệt là Việt Nam. Với những lực lượng nhỏ hơn, nhưng quốc gia này có thể tận dụng lợi thế địa hình để ẩn núp và bất ngờ tấn công tàu sân bay, gây ra những thiệt hại không nhỏ cho tổ hợp tác chiến này.
Sự mất mát tài sản chiến lược có giá trị như một chiếc tàu sân bay cho đến các loại vũ khí xua đuổi trên biển rẻ tiền hơn như dàn tên lửa chống tàu chiến di động ven biển và máy bay chiến đấu trên đất liền, tàu ngầm, và các loại thủy lôi sẽ là một đề xuất tốn kém cho các nhà hoạch định quốc phòng Trung Quốc.
Hơn nữa, do khả năng vốn có giới hạn, nên càng đi về phía Tây, các tính năng của tổ hợp tác chiến hải quân Trung Quốc càng bị suy giảm theo cấp số nhân. Xa các căn cứ đất liền, các tổ hợp tác chiến không thể dựa vào quân tiếp viện trên đất liền như họ có thể mong muốn tại eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và biển Đông. Phần lớn, tổ hợp này phải hoạt động tự chủ, với những nguồn hỗ trợ ít ỏi có sẵn, ngay cả khi có quyền ghé vào các khu căn cứ và cảng biển thân cận.
Tham vọng tàu sân bay của Trung Quốc thường gắn chặt với các lợi ích chiến lược và kinh tế ngày càng lớn trong khu vực Ấn Độ Dương. Do đó, theo tác giả, chắc chắn là tàu sân bay Trung Quốc sẽ là món đồ để Bắc Kinh «phô trương» trong khu vực. Điều đó sẽ cho thấy nhiều khả năng tổ hợp này thực hiện các nhiệm vụ ở cường độ thấp như sơ tán người (tương tự như các tàu chiến trước đó được tiến hành tại Yemen), hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa.
Dẫu sao thì Trung Quốc cũng sẽ tiếp tục tiến lên phía trước với các tham vọng tàu sân bay của mình. Chiếc hiện đang được đóng tại Đại Liên là một nỗ lực quốc gia đầu tiên nhưng chắc chắn không phải là chiếc cuối cùng.
Trên cả biểu tượng của một quốc gia vĩ đại, chương trình tàu sân bay Trung Quốc là một phần không thể thiếu trong toàn bộ nỗ lực của hải quân hướng tới việc củng cố vị thế tầm vóc của hải quân nước này cũng như là mong muốn của Bắc Kinh đóng một vai trò an ninh tích cực cho toàn cầu nhiều hơn. Điều đó đã được Bắc Kinh chứng tỏ tại khu vực Ấn Độ Dương, kể cả châu Phi và Trung Đông.
Niềm tin chiến lược này, trong trường hợp ông Tập Cận Bình kéo dài nhiệm kỳ, sẽ duy trì đà tiến đang diễn ra nếu ta quan sát cường độ mà hải quân đang tìm cách nắm lấy cơ hội để làm chủ tính chất phức tạp của việc đóng tàu sân bay và các chiến dịch khoa trương thanh thế.