Luật BHYT sửa đổi: Chi trả khám sàng lọc cho nhóm bệnh điều trị rất tốn kém - ai được lợi?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

VietTimes – Có 5 nhóm bệnh sẽ được bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả phí khám sàng lọc là: Ung thư cổ tử cung, ung thư vú, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm gan (C, B). Đây là nội dung mới trong Dự án Luật BHYT sửa đổi.

Nếu khám sàng lọc để phát hiện sớm bệnh ung thư cổ tử cung hay ung thư vú, hiệu quả điều trị sẽ cao và chi phí điều trị thấp.
Nếu khám sàng lọc để phát hiện sớm bệnh ung thư cổ tử cung hay ung thư vú, hiệu quả điều trị sẽ cao và chi phí điều trị thấp.

Theo bà Trần Thị Trang - Quyền Vụ trưởng Vụ BHYT (Bộ Y tế) - dự án Luật BHYT sửa đổi mở rộng quyền lợi của người bệnh với việc khám sàng lọc chẩn đoán ung thư cổ tử cung và 4 bệnh khác sẽ do BHYT chi trả, là ung thư vú, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm gan. Điều này nhằm bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT, đồng thời, phù hợp với khả năng chi trả của Quỹ BHYT.

Ông Lê Văn Phúc - Trưởng Ban Thực hiện chính sách BHYT (Bảo hiểm Xã hội Việt Nam) - cung cấp thông tin: Riêng giai đoạn 2022-2023, BHYT đã chi trả cho ung thư 10%. Vì thế, việc khám sàng lọc sẽ giúp phát hiện sớm để điều trị bệnh, qua đó góp phần giảm được chi phí và thời gian điều trị.

Bà Trần Thị Trang cũng cho biết thêm: Khám sàng lọc ung thư cổ tử cung, ung thư vú mang lại hiệu quả điều trị và kinh tế rất lớn, nên nhiều nước đã chi trả từ nguồn Quỹ BHYT. Nhưng ở Việt Nam, việc sàng lọc để điều trị sớm chưa được BHYT chi trả.

VT_ Trang.jpg
Bà Trần Thị Trang - Quyền Vụ trưởng Vụ BHYT (Bộ Y tế)

Cũng theo bà Trang, ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến thứ tư ở phụ nữ, nhưng có thể phòng ngừa và chữa khỏi. WHO cho biết việc loại trừ ung thư cổ tử cung sẽ tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể, khi mỗi đô la đầu tư có thể mang lại 26 đô la Mỹ, từ tác động của sức khỏe phụ nữ được cải thiện đối với gia đình và xã hội.

Chính phủ Việt Nam đã cam kết đạt tỷ lệ sàng lọc ung thư cổ tử cung 60% vào năm 2025, nhưng hiện chỉ có 28% phụ nữ Việt Nam được sàng lọc hàng năm. Tỷ lệ sàng lọc trong 3 năm qua là 17%, trong khi tỷ lệ sàng lọc trong 5 năm qua là 21%, cho thấy có một khoảng cách đáng kể để đạt được mục tiêu sàng lọc.

Vì vậy, dự thảo luật BHYT sửa đổi do Bộ Y tế soạn thảo đã mở rộng quyền lợi của người tham gia BHYT, với việc chẩn đoán, phát hiện sớm bệnh, để phòng tránh được nhiều bệnh lý tăng nặng, điều trị tốn kém, như ung thư, đột quỵ, tim mạch… Từ đó, giảm các chi phí điều trị, mang lại lợi ích cho người bệnh, cho xã hội và cho cả Quỹ BHYT. Hiện nay, Quỹ BHYT chủ yếu chi trả cho điều trị. Chi phí điều trị nội trú các bệnh ung thư, tim mạch vv… rất lớn, trong khi nếu được chẩn đoán sớm, bệnh nhân được điều trị kịp thời, sẽ giảm tỷ lệ nhập viện, giảm tỷ lệ tăng nặng.

Trong báo cáo “Gánh nặng bệnh tật, kinh nghiệm quốc tế về các ưu tiên chính sách liên quan đến ung thư cổ tử cung”, GS. TS. Nguyễn Vũ Quốc Huy - Hiệu trưởng Trường Đại học Y – Dược Huế, Phó Chủ tịch Hội Phụ Sản Việt Nam - nhấn mạnh: Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được nhờ phát hiện và điều trị hiệu quả ở giai đoạn tiền ung thư. GS. Huy cũng cho biết ở Việt Nam, số trường hợp mắc mới hàng năm khoảng trên 4.000 cùng số tử vong hơn 2,2 ngàn. Đây là gánh nặng cho Quỹ BHYT.

VT_ ung thư.JPG
Gánh nặng bệnh tật sẽ giảm rất nhiều, nếu người dân được khám sàng lọc để phát hiện sớm

Giới thiệu các chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, GS. Huy nhấn mạnh: Bệnh lý ung thư cổ tử cung là vấn đề y tế công cộng toàn cầu và quốc gia, có thể loại trừ khỏi cộng đồng khi đạt được mục tiêu với 3 mức dự phòng của WHO, gồm: Dự phòng cấp 1 bằng vaccine HPV; Dự phòng cấp 2 là sàng lọc với việc khuyến nghị BHYT; Dự phòng cấp 3 là điều trị bằng nâng cao năng lực các tuyến y tế. Đặc biệt là triển khai hệ thống ghi nhận sàng lọc ung thư cổ tử cung tích hợp

Bà Nguyễn Khánh Phương - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế (Bộ Y tế) - cho biết: Nghiên cứu ban đầu đánh giá tác động về kinh tế của việc sàng lọc tăng huyết áp cho thấy, chi phí phát sinh do sàng lọc tăng từ năm thứ nhất đến năm thứ 4. Bắt đầu từ năm thứ 5, chi phí này giảm xuống do đối tượng đích giảm.

Về chi phí tiết kiệm được khi sàng lọc sớm, trong năm thứ nhất chi phí điều trị vẫn ở mức khá cao: hơn 9.000 tỷ đồng, nhưng sau đó giảm dần, do giảm số ca biến chứng nặng, đến năm thứ 4 chỉ còn 195 tỷ đồng.

Đặc biệt, từ năm thứ 5, ngân sách không mất tiền mà còn tiết kiệm được chi phí cho điều trị. Đến năm thứ 10, ước tính ngân sách tiết kiệm được hơn 7.700 tỷ đồng. Tính tổng 10 năm có thể tiết kiệm đến hơn 12.000 tỷ đồng. Tương tự với bệnh đái tháo đường, tính gộp trong 10 năm, ngân sách tiết kiệm được gần 1.700 tỷ đồng.

Theo bà Trần Thị Trang, hiện người dân vẫn phải bỏ tiền túi trả khoảng 43% chi phí khám, chữa bệnh. Vì thế, Việt Nam đang phấn đấu giảm tỷ lệ này xuống 30 - 35%, thậm chí có thể khoảng 25%, để tăng cơ hội cho người dân được tiếp cận dịch vụ y tế. Việc khám sàng lọc một số bệnh có thể phòng ngừa cũng là một giải pháp.

Về phía Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, ông Lê Văn Phúc nêu ý kiến: Danh mục chi trả sàng lọc, phát hiện sớm một số bệnh được đưa vào dự thảo Luật BHYT là điểm mới. Bởi, hiện Luật BHYT chỉ mới chi trả cho các dịch vụ khám, chữa bệnh. Việc khám sàng lọc, phát hiện sớm bệnh ung thư cổ tử cung và một số bệnh khác, về lâu dài sẽ mang lại nhiều lợi ích. Người dân được dự phòng tốt hơn, trong trường hợp phát hiện sớm có thể điều trị sớm, giảm chi phí điều trị cũng như tổn hại về tinh thần.