Giữa những tuyên bố và bình luận hiếu chiến, Trung Quốc nhận thức rõ được những tác động tiêu cực của các diễn biến ở Biển Đông đối với quan hệ an ninh của nó trong khu vực. Sách trắng thường niên về ngoại giao Trung Quốc, được xuất bản bởi Bộ Ngoại giao Trung Quốc, và Sách xanh về Châu Á – Thái Bình Dương, được phát hành bởi Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS) vào tháng 1/2011 đã cho rằng Trung Quốc đang phải đối mặt với các thách thức an ninh chưa từng có trong năm 2010.
Một nhóm chuyên gia ở CASS cũng kết luận rằng việc Mỹ “trở lại châu Á” đã gây nguy hiểm cho mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng bằng cách tạo ra hàng rào ngăn cách giữa hai bên, làm suy giảm lòng tin chính trị và tạo ra sự phức tạp mới. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia Trung Quốc vẫn giữ thái độ điềm đạm và ủng hộ một cách tiếp cận ít nhiều thận trọng đối với vấn đề Biển Đông.
Vào đầu tháng 6/2011, một số viện nghiên cứu chính sách đáng chú ý, bao gồm CASS, Hội Thái Bình Dương của Trung Quốc, Quỹ Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược của Trung Quốc, Đại học Nhân Dân, Học viện Thương Hải về Nghiên cứu Quốc tế, phối hợp tổ chức một diễn đàn về các vấn đề an ninh liên quan đến Trung Quốc và khu vực Thái Bình Dương. Quan điểm bao trùm của diễn đàn, được tham dự bởi một số nhà phân tích Trung Quốc hàng đầu, đã khác biệt rõ rệt với thái độ cứng rắn và hiếu chiến như miêu tả ở phần trên. Ví dụ, Liu Jiangyong, một nhà phân tích an ninh tại Đại học Thanh Hoa, chỉ ra rằng Trung Quốc nên nỗ lực dung hoà vị thế “ẩn mình chờ thời” với việc “đạt được điều gì đó” trong tranh chấp Biển Đông. Ông cũng đưa ra một gợi ý đúng đắn cho chính sách an ninh Trung Quốc ở Đông Á: hợp tác lâu dài, phát triển lâu dài và an ninh bền vững, đồng thời ngăn chặn các mối đe dọa thông qua hợp tác, và thúc đẩy hợp tác trong khi ngăn chặn các mối đe dọa.
Nhiều nhà phân tích ở Trung Quốc bác bỏ thẳng thừng phương án sử dụng vũ lực ở Biển Đông. Họ cho rằng việc sử dụng vũ lực là không thực tế vì những hạn chế của Trung Quốc. Học giả đến từ Hải Nam Ngô Sĩ Tồn nhấn mạnh rằng Trung Quốc phải biết cân bằng giữa việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình với việc gìn giữ ổn định ở Biển Đông, đồng thời hướng đến sự ổn định toàn cục ở Biển Đông nhằm giữ vững giai đoạn cơ hội chiến lược. Vì thế, ông tin rằng trong tương lai, việc giải quyết vấn đề Biển Đông sẽ nhiều khả năng thông qua biện pháp hoà bình, đặc biệt là thông qua đàm phán dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật biển đương đại.
Thứ hai, việc sử dụng vũ lực có thể khiến Trung Quốc rơi vào cái bẫy của Mỹ. Một học giả Trung Quốc cho rằng sự can thiệp của Mỹ ở Biển Đông có thể là một âm mưu của Mỹ để lôi kéo Trung Quốc vào một cuộc chiến tranh khu vực dai dẳng nhằm làm suy yếu Trung Quốc. Ông cho rằng chính vì lý do này mà Trung Quốc nên thận trọng. Hơn nữa, Trung Quốc vẫn còn kém xa Mỹ, nên cần nhiều thời gian hơn để phát triển quốc gia. Vì vậy, ông kết luận rằng Trung Quốc hoàn toàn không cần thiết và quá mạo hiểm khi tham gia vào xung đột quân sự.Thứ ba, xung đột quân sự ở Biển Đông có thể làm chệch hướng chú ý của Trung Quốc khỏi tranh chấp đối với Đài Loan. Từ quan điểm địa chính trị, Trung Quốc nên duy trì quan tâm an ninh chủ yếu của mình vào Đài Loan và Nhật Bản trong khi tìm cách xây dựng các quan hệ đối tác ở Đông Nam Á. Một khi Trung Quốc vẫn chưa giải quyết xong vấn đề tranh chấp Đài Loan và đảo Điếu Ngư, Trung Quốc nên tránh đối đầu với các quốc gia Đông Nam Á.
Xue Li, một nhà chiến lược ở CASS cũng chứng minh rằng việc sử dụng bạo lực ở Biển Đông sẽ lôi Trung Quốc vào nhiều hệ quả khó khăn khác: áp lực ngoại giao nặng nề từ cộng đồng quốc tế về việc Trung Quốc thách thức luật pháp quốc tế, phá huỷ môi trường khu vực ổn định cho sự phát triển hoà bình của Trung Quốc, và làm mất đi giai đoạn cơ hội chiến lược cho sự phát triển xa hơn của quốc gia. Bác bỏ việc sử dụng vũ lực, các nhà phân tích khác nhấn mạnh việc Trung Quốc cần tiếp tục sử dụng phương thức hoà bình để giải quyết tranh chấp, và can dự quân sự với các quốc gia trong khu vực để nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau. Họ thúc giục Trung Quốc làm việc với các quốc gia tranh chấp khác để giảm căng thẳng và đạt được một số đột phá trong đàm phán nhằm tránh việc Mỹ có cớ để can thiệp.
Ở mức độ chính thức, phía Trung Quốc kiên định các yêu sách của mình ở Biển Đông và bảo vệ các hành động quyết liệt chống lại các bên tranh chấp khác. Cùng lúc đó, Bắc Kinh cũng tranh thủ cơ hội để cải thiện quan hệ với các quốc gia tranh chấp khác. Dù sao đi nữa, cách xử lý chính thức các cuộc khủng hoảng Biển Đông trong những năm gần đây đã phản ánh các chính sách mà các học giả ôn hoà ủng hộ. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng là cơ quan giữ vai trò chủ đạo trong xử lý tranh chấp Biển Đông và họ luôn ủng hộ chính sách mang tính ôn hòa.
Khi được hỏi ý kiến về nội dung của bài xã luận nêu trên của Thời báo Hoàn Cầu, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho rằng các cơ quan truyền thông có quyền biên tập và bình luận. Bà cũng nói thêm rằng bà tin truyền thông Trung Quốc sẽ đưa tin một cách trung thực, khách quan và có trách nhiệm. Sau đó bà nhắc lại ý định hoà bình của Trung Quốc đối với các nước láng giềng và nhấn mạnh các cuộc đàm phán là cách thức tốt hơn nhằm giúp ổn định tình hình. Nhận định của bà có thể được xem như là sự không đồng ý với bài xã luận của Thời báo Hoàn Cầu.
Các quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nỗ lực bảo vệ chính sách bị cho là nhu nhược này. Một quan chức Ngoại giao tên là Zhang Yan đã phản bác lại những chỉ trích cho rằng chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là quá yếu ớt tại diễn đàn hồi tháng 6/2011. Bà bảo vệ chính sách của Trung Quốc trên cơ sở cho rằng chính sách đối ngoại Trung Quốc là để phục vụ cho mục tiêu tạo dựng một xã hội khá giả trong nước. Nguyên Vụ trưởng Vụ Châu Á tại Bộ Ngoại giao Trung Quốc Zhang Jiuheng cũng bảo vệ cho chính sách này rằng: “Vấn đề Biển Đông thật sự rất phức tạp. Chúng ta cần thừa nhận sự tồn tại của tranh chấp… Không ai muốn thấy căng thẳng trong khu vực. Không ai mong muốn có xung đột quân sự trong khu vực cả.”
Đáp lại lời kêu gọi trong nước đòi Trung Quốc lựa chọn lập trường cứng rắn hơn trong các vấn đề quốc tế, Uỷ viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc đã đăng một bài trên tờ Nhân dân Nhật báo vào tháng 12/2010, trong đó ông có đề cập rằng: “nếu chúng ta không thể xử lý đúng đắn các mối quan hệ với thế giới bên ngoài, cơ hội phát triển trong 20 năm của thế kỷ mới được gầy dựng nên bởi nền hoà bình quốc tế, sự ổn định tổng thể trong quan hệ giữa các cường quốc và sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ, sẽ bị đánh mất”.
Sự bất đồng ngoại giao tại ARF năm 2010 ở Hà Nội đã thúc đẩy Bắc Kinh nhìn nhận nghiêm túc vấn đề Biển Đông, đặc biệt là chính sách mang tính can thiệp ngày càng nhiều của Mỹ. Sau mùa hè năm 2010, Trung Quốc bắt đầu có nhiều hành động để xoa dịu tranh chấp ở Biển Đông. Các bên tranh chấp khác đã phản ứng tích cực trước những nỗ lực ngoại giao này. Vào tháng 8, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh đã đến thăm Bắc Kinh và một lần nữa cam đoan với Trung Quốc về các ý định và cam kết ôn hoà của Việt Nam. Ông tỏ ý rằng Việt Nam sẽ không theo đuổi ba hành động sau: tham gia liên minh với quốc gia khác; cho phép thiết lập các căn cứ nước ngoài ở Việt Nam; và phát triển mối quan hệ với các nước khác nhằm chống lại bên thứ ba.
Tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc –ASEAN vào tháng 10, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã xác nhận lại rằng Trung Quốc sẵn sàng làm việc với các quốc gia ASEAN để thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Tại cuộc họp bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM Plus) lần đầu tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã phản hồi nhẹ nhàng khi vấn đề Biển Đông được đưa ra. Vào tháng 10, Thứ trưởng Ngoại giao Trương Chí Quân đã thăm bốn nước ASEAN trong một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Vào tháng 11, Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình, trong một chuyến thăm Singapore, đã cố gắng đảm bảo với các nước về khuynh hướng hoà bình của Trung Quốc trong khu vực.
Tới cuối năm 2010, nhiều nhà quan sát trông chờ một giai đoạn tương đối hoà dịu ở Biển Đông vì các quốc gia tranh chấp đã bắt đầu đàm phán về dự thảo bản hướng dẫn thực hiện DOC. Tuy nhiên, một loạt các hành động của các cơ quan chấp pháp Trung Quốc chống lại các hoạt động kinh tế của Philippines và Việt Nam ở Biển Đông một lần nữa lại thổi bùng mâu thuẫn từ tháng 3 đến tháng 6/2011. Trước khi mâu thuẫn leo thang, Bắc Kinh và Hà Nội đã đồng ý đàm phán. Tháng 6/2011, Việt Nam đã cử đặc phái viên đến Bắc Kinh. Hai bên đồng ý về những điểm sau: giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán; kiềm chế không thực hiện những hành động có thể làm căng thẳng leo thang; chống lại sự can thiệp từ bên thứ ba; và chủ động định hướng dư luận ở mỗi nước.
Cuối tháng 8, các quan chức quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau ở Bắc Kinh và thảo luận cách thức giảm căng thẳng ở Biển Đông. Một số quan chức cấp cao của cả hai nước tiếp tục gặp nhau ở Hà Nội vào đầu tháng 9 để tham dự cuộc họp lần thứ năm của Uỷ ban chỉ đạo quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Cả hai nước đều nắm lấy cơ hội này để làm giảm căng thẳng. Tuyên bố chung được đưa ra bởi các đồng chủ tịch của ủy ban, Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khi đó, đều mang giọng hoà giải, cả hai bên cam kết sẽ chấp hành DOC.
Sau vài tháng đàm phán, Bắc Kinh cuối cùng đã quyết định ký kết văn bản này với ASEAN vào tháng 7/2011 tại Hội nghị Ngoại trưởng Trung Quốc – ASEAN. Trung Quốc cam kết hợp tác với các quốc gia tranh chấp khác để thực hiện DOC và đề xuất đứng ra tổ chức một hội thảo về tự do hàng hải ở Biển Đông cũng như thiết lập ba ủy ban kỹ thuật về nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường, an toàn hàng hải và tìm kiếm và cứu nạn, và chống tội phạm xuyên quốc gia trên biển. Sau khi bản hướng dẫn được thông qua, tờ Nhân dân Nhật báo đã nhận định rằng: “Điều này có lợi cho hoà bình và ổn định ở Biển Đông và sẽ đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và phân định các vùng biển của Biển Đông giữa các quốc gia liên quan. Nó chứng tỏ rằng Trung Quốc và các nước ASEAN đã có quyết tâm, niềm tin cũng như khả năng thúc đẩy hoà bình và ổn định ở Biển Đông”.
Chuyến thăm của lãnh đạo Đảng Việt Nam đến Trung Quốc vào tháng 10/2011 là một cột mốc đáng kể. Trong chuyến thăm này, cả hai nước đã quyết định thiết lập một đường dây nóng giữa lãnh đạo hai nước, một chỉ dấu cho thấy mối quan tâm chung trong việc ngăn chặn những khủng hoảng trong tương lai. Hai nước cũng đồng ý thắt chặt hợp tác quân sự qua nhiều phương thức: tiếp tục đối thoại chiến lược ở cấp thứ trưởng quốc phòng; chuẩn bị thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa bộ quốc phòng hai nước, mở rộng giao lưu trao đổi giữa những sĩ quan trẻ, thăm dò tính khả thi của việc tiến hành tuần tra chung dọc biên giới; tiếp tục tuần tra hải quân chung tại Vịnh Bắc Bộ, và gia tăng các chuyến thăm cảng lẫn nhau của hải quân hai bên.
Trong thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản cho việc giải quyết tranh chấp biển, Trung Quốc và Việt Nam cam kết tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các tranh chấp. Cả hai bên cũng đồng ý thảo luận những giải pháp tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và yêu sách của mỗi bên, bao gồm cả việc khai thác chung. Hai nước đều đồng ý trước tiên cần giải quyết các vấn đề ít mâu thuẫn trước, bao gồm việc phân định ranh giới và khai thác chung khu vực phía Nam cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu biển, tìm kiếm và cứu nạn cũng như ngăn ngừa và cứu trợ thiên tai. Trung Quốc và Việt Nam cũng đồng ý để trưởng đoàn đàm phán về biên giới gặp gỡ thường xuyên và thiết lập đường dây nóng để trao đổi nhằm giải quyết các xung đột trên biển một cách kịp thời và hiệu quả.
Trong chuyến thăm của Tổng thống Philippines Aquino đến Trung Quốc vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9/2011, cả hai nước đều làm nhẹ những tranh chấp của họ ở Biển Đông. Tuyên bố chung được công bố trong chuyến thăm chỉ đề cập ngắn gọn rằng tranh chấp biển không nên ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước. Lãnh đạo hai bên lặp lại rằng họ sẽ giải quyết tranh chấp qua đàm phán hoà bình và tuân thủ DOC. Theo đó, Trung Quốc và Philippines tập trung vào việc thắt chặt kinh tế. Hai trăm doanh nhân Philippines cũng đã tháp tùng chuyến đi của Tổng thống Aquino. Trong chuyến đi, nhiều đề xuất cho việc tăng cường hợp tác kinh tế cũng được công bố. Cả hai bên đều thể hiện sự quan tâm chung đối với các liên doanh khai thác mỏ ở Philippines vốn có thể thu hút từ 2 đến 7 tỷ đô la Mỹ đầu tư từ Trung Quốc. Bắc Kinh và Manila tuyên bố sẽ gia tăng mức thương mại song phương lên 60 tỷ USD và nâng số khách du lịch lên 2 triệu người vào năm 2016.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc vào tháng 11/2011, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục là một láng giềng tốt, người bạn tốt và đối tác tốt của ASEAN, nhấn mạnh Trung Quốc sẵn sàng làm việc với các quốc gia ASEAN để hướng đến việc thực thi toàn diện DOC. Ông nói thêm rằng Trung Quốc cũng sẵn sàng thảo luận soạn thảo Bản Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và cam kết sẽ gia tăng viện trợ của Trung Quốc và hợp tác kinh tế với ASEAN. Ông đề nghị gửi nhiều nhóm doanh nghiệp đến ASEAN để gia tăng thương mại và đầu tư, thiết lập một trung tâm trưng bày sản phẩm ASEAN ở Nam Ninh (Quảng Tây), và thúc đẩy hơn nữa kết nối đường biển và đường bộ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á.
Ông Ôn cũng cam kết cung cấp các khoản vay trị giá 10 tỷ đô la Mỹ (bao gồm 4 tỷ đô la Mỹ vay ưu đãi) cho các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước ASEAN và một quỹ hợp tác biển Trung Quốc-ASEAN với số tiền 3 tỷ nhân dân tệ để hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển, vận tải đường biển, an toàn hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, và hoạt động chống tội phạm xuyên quốc gia. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, ông Ôn đã không phản bác lại phát biểu của Tổng thống Obama và những lãnh đạo khác. Thay vào đó, ông xác nhận lại tự do hàng hải ở Biển Đông. Ông cũng thể hiện cái nhìn tích cực về DOC và lặp lại quan điểm chính thức của Trung Quốc về việc tìm kiếm một giải pháp hoà bình cho các tranh chấp với các nước có liên quan.
Nhiều nhà quan sát đồng ý rằng các cơ quan chấp pháp biển Trung Quốc đã trở nên hung hăng và cứng rắn hơn trong việc bảo vệ những gì được cho là lợi ích của nước họ trên Biển Đông. Trong khi nhận định này là đúng, cũng cần phải để ý rằng các tàu tuần tra của Trung Quốc dường như thể hiện thái độ thận trọng ít nhiều. Vào ngày 2 tháng 3/2011, sau khi cảnh báo tàu khảo sát của Philippines MV Veritas Voyager hoạt động gần Bãi Cỏ Rong, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã nhanh chóng rời khỏi hiện trường trước khi máy bay và tàu của lực lượng tuần duyên Philippines đến. Những tàu tuần tra này sau đó đã không trở lại hiện trường để tiếp tục quấy rối tàu của Philippines.
Các trường hợp tàu Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát dầu khí Việt Nam vào tháng 5 và tháng 6/2011 lại phản ánh sự khác biệt nhỏ trong cách thức Trung Quốc giải quyết hai sự kiện. Sự kiện đầu tiên vào cuối tháng 5, thuỷ thủ đoàn trên một tàu hải giám Trung Quốc đã cắt dây cáp của tàu khảo sát của Việt Nam. Trường hợp thứ hai vào đầu tháng 6, người Trung Quốc cố gắng tinh vi hơn. Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc biện bạch, các tàu cá của Trung Quốc đã bị tàu có vũ trang của Việt Nam truy đuổi, và trong khi chạy trốn, lưới đánh cá của một trong những tàu Trung Quốc đã bị vướng vào dây cáp tàu khảo sát dầu Việt Nam.
Tàu cá Trung Quốc đã bị kéo đi hơn một giờ trước khi nó được trả tự do. Trường hợp thứ hai, nếu những tuyên bố của Trung Quốc được chứng minh là đúng, sẽ chứng tỏ rằng Trung Quốc đã cố gắng khéo léo hơn nhằm tránh một cuộc đối đầu trực tiếp với Việt Nam. Bên cạnh việc cho rằng tàu Việt Nam đang hoạt động bất hợp pháp trên vùng biển mà Trung Quốc yêu sách, Bắc Kinh còn cố gắng biện minh cho hành động cắt dây cáp với lý do bảo vệ ngư dân và tàu cá Trung Quốc khỏi nguy hiểm. (Tuy nhiên sự kiện hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014 và thực trạng Trung Quốc ráo riết cải tạo, xây đảo trái phép, quân sự hóa Biển Đông hiện nay đã nói lên dã tâm và mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc).