Thiếu tướng, TS Đỗ Lê Chi đã đưa ra dự báo như vậy trong cuốn sách “Việt Nam trước tác động của cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương” được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản.
a) Xu hướng phát triển tại khu vực
* Châu Á - Thái Bình Dương chi phối an ninh và thịnh vượng toàn cầu
Chiếm gần một nửa dân số thế giới, châu Á - Thái Bình Dương là thị trường lớn nhất toàn cầu, tập trung nhiều nhất các nền kinh tế hàng đầu thế giới, ngoài ra còn có 4 nền kinh tế lớn khác là Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Ấn Độ và Inđônêxia, hợp thành 7 thành viên của G20 - nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nghiên cứu của Tổ chức Khảo sát thị trường quốc tế (BMI) cho thấy đến năm 2030, châu Á sẽ trở thành khu vực chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP toàn cầu, vào khoảng 40%. Trung Quốc sẽ chiếm một nửa số đó, ngang bằng với Bắc Mỹ và châu Âu.
Viện Brookings (Mỹ) dự báo đến năm 2030, châu Á - Thái Bình Dương là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với 3,5 tỉ người thuộc tầng lớp trung lưu, lớn hơn tất cả các khu vực khác cộng lại và sẽ quyết định xu hướng vận động của thị trường toàn cầu.
Châu Á - Thái Bình Dương cũng tiếp tục là nơi tập trung nhất các tranh chấp, bất đồng phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, trong đó có các “điểm nóng” như Biển Đông, biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, ly khai, khủng bố mang màu sắc dân tộc, tôn giáo và ngay cả một số thách thức an ninh phi truyền thống như an ninh mạng, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, năng lượng, v.v.. Việc tìm ra được giải pháp hòa bình, xử lý triệt để những căng thẳng ở khu vực này một cách hòa bình từ nay đến năm 2030 là rất khó xảy ra.
Thực tế, trong nhiều thập niên qua, các “điểm nóng” tại khu vực đã trở nên phức tạp hơn, và thường chỉ được tạm thời lắng xuống sau những thời điểm căng thẳng leo thang đến bờ vực xung đột, chiến tranh. Với vị thế trung tâm, thập niên tới châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là nơi tập trung những liên kết, hợp tác quốc tế lớn nhất toàn cầu, đặc biệt là về hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời cũng là nơi cọ xát chiến lược nước lớn gay gắt nhất, tác động, chi phối trật tự toàn cầu, trực tiếp là tới trật tự khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
* Hợp tác vẫn là xu thế bao trùm, với mức độ tùy thuộc lẫn nhau gia tăng, tuy nhiên đấu tranh cũng gay gắt, quyết liệt hơn
Trong thập niên tới, châu Á - Thái Bình Dương sẽ phải đối mặt với một số vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi các quốc gia phải nỗ lực hợp tác đối phó, trong đó có tội phạm mạng, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, biến đổi khí hậu, đại dịch và nhiều mối đe dọa khác.
Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên hợp quốc nhận định trong khoảng từ năm 2015 đến năm 2030, 40% tổn thất kinh tế toàn cầu do thiên tai sẽ xảy ra ở châu Á – Thái Bình Dương. Đến năm 2030, mỗi năm sẽ tốn khoảng 373 tỉ USD để khắc phục tình trạng biến đổi khí hậu tại khu vực này. Ngoài ra, những vụ tấn công khủng bố ở một loạt quốc gia trong thời gian vừa qua cùng với thực tế châu Á - Thái Bình Dương là nơi sinh sống của gần 65% người Hồi giáo trên thế giới cũng khiến cho mối đe dọa này ngày càng trở nên hiện hữu hơn.
Đồng thời, theo Cơ quan phòng, chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc, việc trở thành một khu vực năng động, là động lực của tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng khiến châu Á - Thái Bình Dương là địa bàn tập trung các loại tội phạm xuyên quốc gia, trong đó đáng chú ý là tội phạm ma túy, buôn người, buôn lậu vũ khí, tội phạm môi trường và tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Để đối phó với các nguy cơ, thách thức đang có xu hướng gia tăng và đe đọa đến môi trường hòa bình, ổn định của khu vực như vậy các quốc gia sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác, thúc đẩy các cơ chế, diễn đàn hợp tác đa phương trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực an ninh nói riêng trong thời gian tới.
Tuy nhiên, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy với sự thay đổi về chất, trở thành một xu thế đề cao chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang ngăn cản xu thế hợp tác, làm xấu đi tình hình an ninh, ổn định tại khu vực. “Dân túy” cũng làm trầm trọng hơn yêu cầu của một số cường quốc đòi xóa bỏ trật tự đã có, thiết lập trật tự mới ở khu vực và thế giới, xác lập địa vị cao hơn cho quốc gia mình. “Dân túy” cũng kích động mạnh mẽ hơn xu hướng ly khai đòi “độc lập”, làm mất ổn định nghiêm trọng tại nhiều khu vực, như châu Âu với Brexit.
Để đối phó, các quốc gia có thể lựa chọn chính sách tăng cường năng lực quân sự, quốc phòng như trường hợp Triều Tiên, Iran. Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực đã tăng nhanh ngân sách quốc phòng để chế tạo, mua sắm vũ khí hiện đại. Thực tế trên không chỉ cản trở tiến trình hợp tác, liên kết mà còn tác động nghiêm trọng đến sự ổn định và phát triển bền vững của khu vực.
* Tiến bộ của khoa học - công nghệ làm thay đổi quan hệ quốc tế
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế thế giới mà còn làm thay đổi quan hệ quốc tế ở phạm vi toàn cầu nói chung và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.
Trước hết, tiến bộ khoa học – công nghệ làm thay đổi cơ bản phương thức sản xuất, kinh doanh, quản trị ở phạm vi quốc gia và quốc tế, thúc đẩy nền kinh tế tri thức và phân công lao động quốc tế, vì thế đòi hỏi các quốc gia phải xây dựng những “luật chơi”, nguyên tắc vận hành mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Bên cạnh đó, nó cũng làm thúc đẩy xu hướng cạnh tranh về khoa học - công nghệ giữa các nước lớn nhằm gia tăng sức mạnh và lợi thế quốc gia, nhất là giữa Trung Quốc và Mỹ. Hầu hết các nước lớn trong khu vực đều đưa ra chiến lược phát triển khoa học, công nghệ của mình. Quốc gia nào dẫn dắt về công nghệ sẽ chiếm ưu thế trong trật tự quan hệ quốc tế mới. Trung Quốc hiện đi tiên phong trên lĩnh vực sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, trí tuệ nhân tạo và đạt được những thành công quan trọng.
Trung Quốc cũng tìm cách thay thế Mỹ đi đầu, dẫn dắt các tiến trình liên kết quốc tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, phát huy sức mạnh tổng hợp vượt trội hiện có và đang gia tăng ảnh hưởng to lớn thông qua tập hợp lực lượng theo cấu trúc “Đàn sếu bay”, nhất là nhằm vào các quốc gia có nền kinh tế nhỏ, chậm phát triển. Trung Quốc cũng sử dụng sức mạnh đó với Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Hàn Quốc… để cản trở hoặc vô hiệu hóa nỗ lực tập hợp lực lượng của Mỹ, hạt nhân là thiết lập liên minh “Bộ tứ”.
b) Tương quan lực lượng và chiều hướng chiến lược của các nước lớn
Mỹ - Trung tiếp tục là cặp quan hệ quan trọng nhất, ảnh hưởng toàn diện, tác động đa chiều và có ý nghĩa quyết định đối với xu thế an ninh, quân sự, kinh tế, chính trị và trật tự thế giới trong tương lai, nhất là tại châu Á - Thái Bình Dương. Sự định hình và vận động của cấu trúc an ninh tại châu Á - Thái Bình Dương tới đây phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ này.
Ngày 08/01/2019, Ngân hàng Standard Chartered dự báo đến năm 2030, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ lần lượt vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất và nhì thế giới, Mỹ sẽ xuống vị trí thứ ba (Hình 6). Sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế sẽ cho phép Trung Quốc tiếp tục tăng cường đầu tư để nâng cao tiềm lực quân sự, quốc phòng. Về sức mạnh quân sự, nếu chỉ so sánh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương thì Trung Quốc cũng chiếm ưu thế hơn Mỹ.
Theo nhà sử học Afred McCoy, đến năm 2030, Trung Quốc không chỉ vượt Mỹ về kinh tế mà còn cả về quân sự và thay thế vị trí số một của Mỹ ở châu Á một cách hòa bình với chiến lược “lát cắt salami”.
Theo học giả Roger Cliff, chuyên gia phân tích các vấn đề chính trị của RAND, trong 10 năm tới, mức độ hiện đại về quân sự của Trung Quốc sẽ tương đương với các đồng minh của Mỹ ở châu Âu và Trung Quốc sẽ theo sát Mỹ về sức mạnh quân sự.
Riêng ở Đông Á, Trung Quốc đang thành công trong việc thay thế Mỹ trở thành quốc gia chi phối, lãnh đạo khu vực. Trả lời phỏng vấn của Trung tâm Nghiên cứu chính sách quốc gia của Mỹ, học giả này cho rằng: “Trung Quốc có thể đạt được vị thế cường quốc quân sự thống trị tại khu vực là bằng cách làm cho Mỹ giảm các cam kết an ninh ở đây qua việc từ bỏ các bảo đảm an ninh của mình cho một số quốc gia hoặc rút lực lượng quân sự khỏi khu vực”.
Xét trên góc độ toàn cầu, trong vòng một thập niên tới, Mỹ vẫn giữ vị trí mạnh nhất, vượt trội hơn mọi đối thủ khác, nhất là về quân sự, trình độ khoa học - công nghệ, mạng lưới đồng minh và cả sức hấp dẫn của “giá trị Mỹ”.
Tuy nhiên, vị thế của Mỹ không chắc chắn, và những điều chỉnh của Chính quyền Trump và các chính quyền tiếp theo không dễ ngăn cản được sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mặc dù vậy, theo các chuyên gia phân tích của Tổ chức Dự báo Tình báo toàn cầu (Stratfor), từ nay đến năm 2030, về tổng thể Mỹ vẫn có ưu thế nhất định và Trung Quốc sẽ chưa thể đuổi kịp Mỹ về năng lực quân sự tổng hợp.
Bên cạnh Trung Quốc và Mỹ, ảnh hưởng của các cường quốc khác trong khu vực như Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia cũng sẽ tăng lên, tác động đến sự định hình và vận động của cấu trúc an ninh khu vực. Xu thế chuyển dịch trọng tâm quyền lực toàn cầu từ
Tây sang Đông đã kéo theo sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn theo hướng tăng cường mức độ ảnh hưởng và sự hiện diện ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trong số các cường quốc khu vực, đáng chú ý là vai trò của Nhật Bản và Ấn Độ. Cho đến năm 2030, quan tâm chiến lược của Nga khó thoát hẳn ra khỏi không gian sinh tồn của mình và với thực lực hiện tại, Nga còn bị tác động nhiều bởi yếu tố Trung Quốc và chính sách tiếp tục theo hướng liên kết với Trung Quốc ngăn chặn Mỹ tại khu vực.
Trong khi đó, Nhật Bản sẽ tiếp tục mở rộng ảnh hưởng về an ninh tại khu vực; Ấn Độ triển khai thực chất hơn lợi ích của mình tại Đông Nam Á trên cả khía cạnh an ninh lẫn kinh tế. Cả hai quốc gia này đều có xung đột lợi ích với Trung Quốc nên sẽ tăng cường hợp tác với nhau và với Mỹ để tăng cường khả năng ngăn chặn Trung Quốc. Điều này sẽ tác động đến xu hướng liên kết, tập hợp lực lượng trong một cấu trúc an ninh mới tại châu Á - Thái Bình Dương.
c) Tương lai của ASEAN và các cơ chế do ASEAN làm trung tâm
ASEAN tiếp tục nắm giữ vị thế chiến lược đặc thù. Các cơ chế hợp tác của ASEAN sẽ tiếp tục là “sân chơi” của các nước lớn/trung tâm quyền lực để xử lý những vấn đề an ninh khu vực.
ASEAN tiếp tục là một nhân tố không thể thiếu trong chính sách của nước lớn trong và ngoài khu vực. Bản thân các nước thành viên ASEAN cũng nhận thức rõ lợi ích to lớn trong việc duy trì, củng cố vai trò trung tâm của mình trong cấu trúc an ninh khu vực, từ đó đã thống nhất được các mục tiêu đến năm 2025 với định hướng xây dựng một tổ chức có mức độ liên kết sâu rộng, giữ vai trò trung tâm tại khu vực; một cộng đồng vận hành theo luật lệ, có sự tham gia rộng rãi hơn của người dân và mang đến những lợi ích thiết thực cho họ.
Tại hai văn kiện quan trọng của ASEAN năm 2018 là Tuyên bố Chủ tịch (ngày 28/3/2018) và Thông cáo chung Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 51 (ngày 02/8/2018), các nước ASEAN đã bước đầu đạt được đồng thuận về một số điểm cơ bản của tầm nhìn về cấu trúc khu vực, bao gồm tính mở, minh bạch, bao trùm, tôn trọng luật pháp và lấy ASEAN làm trung tâm.
Tuyên bố Chủ tịch còn có định hướng về việc xây dựng cấu trúc khu vực theo các cơ chế do ASEAN dẫn dắt bao gồm ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF, ADMM+. Đến Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 tại Bangkok (Thái Lan, tháng 6/2019), ASEAN đã thông qua Tài liệu Quan điểm ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (AIOP) phù hợp với cách tiếp cận an ninh toàn diện của ASEAN, nhấn mạnh tầm quan trọng của các nguyên tắc của khu vực bao gồm cởi mở, minh bạch, bao trùm và dựa trên luật lệ cũng như khẳng định vai trò của các quy tắc và cơ chế hiện hành của khu vực.
Mặc dù chỉ là văn kiện hướng dẫn, không phải tài liệu có tính ràng buộc cao nhưng AIOP là tài liệu có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ thúc đẩy tiến trình xây dựng Cộng đồng và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt mà còn là một biểu hiện khẳng định sự quyết đoán về chính trị và ngoại giao của ASEAN, cho thấy ASEAN có lập trường riêng của mình đối với các chiến lược lớn tại khu vực.
ASEAN sẽ tiếp tục tăng cường sức mạnh nội tại. Tuyên bố tầm nhìn của các nhà lãnh đạo về sự phát triển bền vững được ASEAN thông qua tại Hội nghị cấp cao lần thứ 34 thống nhất thúc đẩy một ASEAN phát triển bền vững, hướng tới người dân, lấy người dân làm trung tâm, một ASEAN không rào cản (seamless ASEAN) thông qua tăng cường kết nối, kết nối tiểu vùng, triển khai Kế hoạch tổng thể và kết nối ASEAN (MPAC) 2025, cơ chế một cửa ASEAN (ASW), Sáng kiến mạng lưới các thành phố thông minh ASEAN (ASCN); thúc đẩy nền kinh tế và một ASEAN số hóa.
Hiện một nửa số chính phủ thành viên ASEAN bao gồm Thái Lan, Inđônêxia, Xingapo, Malaixia và Brunây đang trở thành những nhà tài trợ ngay tại khu vực; Thái Lan đã khôi phục lại Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya – Mekong bằng cách đưa ra một kế hoạch tổng thể mới kèm theo quỹ đầu tư mới cho kết cấu hạ tầng và kết nối; tạo cơ hội để nước này và các nước Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam trực tiếp định hình hợp tác phát triển trong khu vực trên nền tảng sức mạnh của các thành viên.
Việc các nước lớn tập trung ưu tiên vào khu vực cũng là nguyên nhân khách quan giúp thúc đẩy vai trò trung tâm của tổ chức này trong cấu trúc an ninh khu vực. Tác động rõ rệt nhất là với các chính sách hướng vào khu vực, các nước lớn sẽ có nhu cầu thúc đẩy hợp tác với ASEAN, đồng thời xu hướng gia tăng cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau giữa các cường quốc cũng tạo ra không gian lớn hơn để ASEAN phát huy vai trò trung gian, điều hòa lợi ích xung đột giữa các bên. Theo Quỹ châu Á, chưa bao giờ các sáng kiến mới ở Đông Nam Á phát triển mạnh mẽ như hiện tại với vai trò ngày càng rõ của các nước lớn.
Chỉ tính riêng khu vực Tiểu vùng sông Mekong đã có hàng chục đề án phát triển với sự can dự sâu sắc của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Ấn Độ, tạo cho ASEAN những cơ hội hợp tác, phát triển mới. Tuy nhiên, ASEAN cũng chịu tác động mạnh từ thay đổi của tình hình.
Với sự lôi kéo của nước lớn, nhất là Trung Quốc, những nguyên tắc căn bản của ASEAN đứng trước thách thức lớn trong bối cảnh chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan tiếp tục tăng lên. Vai trò của ASEAN đối mặt với khả năng suy giảm. Bên cạnh đó, một số vấn đề nội tại của ASEAN cũng là những nhân tố làm giảm sức mạnh tổng hợp của Cộng đồng, làm suy giảm sự gắn kết trong khối, tác động tiêu cực đến vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực.