Mỹ - Trung: Cạnh tranh xen hợp tác
Quan hệ Mỹ - Trung trong năm 2014 tiếp tục mang đậm đặc trưng “đối thủ cạnh tranh” xen lẫn “đối tác hợp tác”, với điểm nhấn là việc cả hai nước đều cố gắng không để trục quan hệ có tầm quan trọng nhất trên thế giới này đi vào thế đối đầu gay gắt, trực diện, vượt tầm kiểm soát.
Nhân tố cạnh tranh xuất phát từ chính vai trò, vị thế của mỗi nước, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sau hơn 30 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã có bước tiến dài, chính thức vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP) - theo đánh giá của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Quyền lực về kinh tế đi kèm với sức nặng chính trị là tiền đề để quốc gia đông dân nhất thế giới vươn mình ra bên ngoài, khẳng định vị thế cường quốc tầm châu lục và thế giới. Từ bỏ phương châm “giấu mình chờ thời”, Trung Quốc giờ đây không ngần ngại nói đến vị thế mới cho riêng mình. Lãnh đạo nước này đã nhiều lần nói đến khái niệm “châu Á là của người châu Á” mà ẩn đằng sau đó là vai trò lãnh đạo của riêng Trung Quốc. Sự phát triển này đương nhiên không làm Mỹ - nước tự xem mình là cường quốc duy nhất được thừa nhận trên thế giới, bằng lòng, vì đó là sự va chạm về mặt quyền lực và quyền lợi.
Tuy nhiên, cả Mỹ và Trung Quốc đều chủ động “chừa ra” dư địa cho việc tăng cường hợp tác song phương, khi mà hai nước ràng buộc khá chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực. Mỹ và Trung Quốc hiện đều là những đối tác kinh tế lớn nhất của nhau, với kim ngạch thương mại song phương vượt 500 tỉ USD/năm. Trung Quốc đang nắm giữ một lượng trái phiếu chính phủ Mỹ trị giá khoảng 1.300 tỉ USD, là “chủ nợ” lớn nhất của Mỹ.
Hơn nữa, Mỹ và Trung Quốc đều cần đến nhau trong nhiều vấn khác như biến đổi khí hậu, thương mại toàn cầu… Điều đó giải thích tại sao lãnh đạo hai nước muốn hướng đến một tầm nhìn chiến lược cho quan hệ song phương, tiếp tục thúc đẩy mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới, không xung đột, không đối đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng thắng. Đặc biệt, Washington và Bắc Kinh đã đạt được một loạt những thỏa thuận quan trọng tại cuộc gặp cấp cao bên lề Hội nghị thượng đỉnh APEC vừa qua ở Bắc Kinh. Nổi bật nhất trong số này là cam kết tránh đối đầu quân sự tại châu Á, thỏa thuận thương mại về công nghệ thông tin trị giá 1.000 tỉ USD.
Nga - Trung: Lợi ích song trùng
Hợp tác Nga - Trung có bước phát triển mạnh trong năm 2014 trên nền tảng đã được xác lập từ trước. Lãnh đạo hai nước đã có hơn 10 cuộc tiếp xúc cấp cao, đi liền với đó là việc ký kết hơn 50 văn kiện hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố quan hệ Nga - Trung đang ở giai đoạn “tốt nhất” trong lịch sử. Hợp tác kinh tế diễn ra sôi động, nổi bật là việc ký kết hai hợp đồng Nga cung cấp 68 tỉ m3 khí đốt/năm cho Trung Quốc, trị giá hàng trăm tỉ USD.
Chuyển động bước ngoặt trong quan hệ Nga - Trung được khơi nguồn từ việc cả hai bên đều thuận theo quan điểm không chấp thuận một thế giới đơn cực, ủng hộ cục diện đa cực, mà ở đó Nga và Trung Quốc là cực trung tâm. Đặc biệt, mối bang giao này có thêm xung lực mới sau cuộc khủng hoảng Ukraine. Trước việc bị Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) phong tỏa, cô lập về kinh tế thông qua hàng loạt các lệnh cấm vận, Nga đã đẩy mạnh các bước tiến về phía Đông mà ở đó Trung Quốc nổi lên là đối tác đặc biệt quan trọng.
Nga xem Trung Quốc là thị trường tiêu thụ năng lượng chủ chốt, là đầu mối cung cấp các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và là nhà “cung cấp vốn” quan trọng cho các dự án, chương trình phát triển kinh tế lớn của Nga, trong bối cảnh thị trường và nguồn vốn từ các nước phương Tây tiềm ẩn nhiều bất ổn.
Về phần mình, Trung Quốc cũng thu được các lợi ích to lớn trong hợp tác với Nga. Quan hệ hợp tác với Nga giúp Trung Quốc đẩy nhanh tiến trình hội nhập Á - Âu, tạo đối trọng trước chiến lược xoay trục của Mỹ sang châu Á - Thái Bình Dương. Nó cũng giúp Bắc Kinh có thêm điều kiện thuận lợi để gia tăng hợp tác quân sự với Moskva nhằm đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa quân đội - một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược “Bốn hiện đại hóa”. Trên nền tảng lợi ích song trùng như vậy, cả Nga và Trung Quốc sẽ có được tiếng nói và sức mạnh thống nhất trong các thiết chế đa phương để phản đối các biểu hiện của lối hành xử đơn phương.
Tuy nhiên, được định hình và thúc đẩy bởi yếu tố tình thế nên quan hệ Nga - Trung có thực sự bền chặt hay không vẫn sẽ là một dấu hỏi lớn.
Nga - Mỹ: Một gam màu xám
Quan hệ Nga - Mỹ đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô, thậm chí có đánh giá cho rằng hai nước đã tiến đến một cuộc Chiến tranh Lạnh phiên bản 2.0. Thực trạng này phản ánh một thực tế: Việc chính quyền Tổng thống Obama tuyên bố “cài đặt lại” quan hệ với Nga hơn một năm trước đây thực chất chỉ là cách nói mang tính “sáo ngữ”.
Rạn nứt giữa Washtington và Moskva thoạt nhìn có nguyên nhân sâu xa từ cuộc khủng hoảng Ukraine, khi mà cả hai đều kiên quyết bảo vệ lợi ích của mình tại quốc gia có tầm quan trọng chiến lược này. Mỹ và đồng minh phương Tây ủng hộ phe đối lập Ukraine tiến hành đảo chính lật đổ Tổng thống Viktor Yanukovych dưới “khẩu hiệu” tăng cường liên kết và hội nhập với châu Âu. Mục đích chính là tạo lập một chính quyền Kiev thân Mỹ, giúp Washington vươn tầm ảnh hưởng tới sát nách nước Nga. Đó là điều mà Moskva không chấp nhận, đối đầu Nga - Mỹ vì thế tăng nhiệt.
Thế nhưng, việc Crimea sáp nhập vào Nga suy cho cùng chỉ là “điểm nút”, làm phát lộ những mâu thuẫn tích tụ lâu nay giữa Moskva và Washington. Quan hệ Nga - Mỹ đã “chết” trước khi nổ ra khủng hoảng Ukraine - như đánh giá của Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov. Nguyên do chủ yếu là việc hai bên “thiếu lòng tin, thừa sự nghi ngại”.
Làm suy yếu và chia rẽ nước Nga vẫn luôn là mục tiêu nhất quán của nhiều đời Tổng thống Mỹ. Nó thể hiện qua việc Mỹ đã âm thầm lôi kéo các nước thuộc không gian hậu Xô Viết gia nhập khu vực ảnh hưởng của phương Tây, thúc đẩy các phong trào dân chủ trong lòng nước Nga, thông qua vai trò của các tổ chức phi chính phủ. Trong thông điệp liên bang 2014, Tổng thống Putin đã không ngần ngại nói thẳng rằng, hơn một thập kỉ qua Mỹ luôn tìm cách hạ thấp vai trò của Nga trong các vấn đề toàn cầu và “sẵn sàng áp dụng các kịch bản Nam Tư để chia cắt và làm phân rã nước Nga”.
Những tác động lớn
Chuyển động qua lại theo các chiều hướng khác nhau trong quan hệ tam giác Mỹ - Trung Quốc - Nga năm 2014 có tác động lớn đến cục diện quốc tế, trên cả hai khí cạnh chủ yếu sau.
Thứ nhất, nó gây ra những biến chuyển địa chính trị, địa kinh tế và tác động trực tiếp đến lợi ích của các nước khác. Xu hướng nóng lên hay dịu đi tại các điểm nóng tranh chấp lãnh thổ tại Biển Hoa Đông, Biển Đông, khủng hoảng bên trong châu Âu trong vấn đề Ukraine, bất ổn tại Trung Đông… ở một góc độ nào đó đều mang dấu ấn của sự dịch chuyển, cọ xát trong quan hệ giữa các nước lớn.
Kinh tế toàn cầu cũng chứng kiến đà lao dốc của giá dầu, xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, mà một phần nguyên nhân được cho là do hệ quả của “trò chơi” giữa các nước lớn. Vô hình trung, khủng hoảng Ukraine đã gây tác động không nhỏ tới quốc gia cách đó cả nghìn dặm là Venezuela, khi quốc gia Nam Mỹ này phải mặt với tình trạng lạm phát tăng cao, khan hiếm hàng hóa, tiềm ẩn bất ổn xã hội do ngân sách phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu dầu.
Thứ hai, nó đặt ra nhiều thách thức đối với các nước nhỏ trong xử lý quan hệ với các nước lớn. Khủng hoảng Ukraine nổ ra vì nhiều nguyên nhân, nhưng trên hết là việc nhiều thế hệ lãnh đạo Kiev đã bế tắc và thất bại trong việc dung hòa quan hệ với Nga và phương Tây dựa trên nền tảng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thế “tiến thoái lưỡng nan” như vậy cũng là tình cảnh mà nhiều nước như Serbia, Moldova, Hungary, Bulgaria… đang gặp phải.
Theo: Báo Tin Tức