
LTS: Trong bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết “sắp tới Bộ Chính trị sẽ ra Nghị quyết về kinh tế tư nhân (KTTN) và nhấn mạnh: “Cần xác định phát triển KTTN là chiến lược, chính sách lâu dài của quốc gia”.
Trước đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính, khi họp với Tiểu Ban Kinh tế - xã hội Đại hội toàn quốc lần thứ XIV cũng khẳng định: “Lấy KTTN làm động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và có cơ chế, mạnh dạn đặt hàng, giao một số việc lớn cho các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân”.
Nhân dịp này, VietTimes đã có cuộc trò chuyện với luật sư Nguyễn Tiến Lập, Thành viên cấp cao Văn phòng luật sư NHQuang và Cộng sự, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam, chuyên gia về kinh tế - Tài chính và Doanh nghiệp.
KTTN - động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Người đứng đầu Đảng và Chính phủ ta đều xác định KTTN là động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Ý kiến của luật sư về vấn đề này như thế nào?
- Trước hết phải nói rằng quan điểm hay chủ trương này không mới, chưa muốn nói rằng đó chính là thực tế của kinh tế Việt Nam trong suốt mấy chục năm vừa qua. Bởi bản chất của Đổi mới là gì nếu không phải là chuyển sang cơ chế thị trường, mở cửa cho đầu tư của tư bản nước ngoài và cởi trói để KTTN phát triển ?
Nói như vậy, từ nhiều năm trước tôi đã phát biểu rằng KTTN chính là bản thân nền kinh tế. Lý do đơn giản bởi các hoạt động kinh tế chính là bản năng đầu tiên và quan trọng nhất của con người và sẽ luôn luôn là vậy.
Trong khi kinh tế quốc doanh mang tính chất “nhân tạo” tức được tạo nên bởi ý chí chính trị, quan điểm phát triển của nhà lãnh đạo hay đặc thù rất riêng biệt của một số quốc gia nhất định, ví dụ như các nước vùng Vịnh vốn đi lên từ dầu mỏ là tài nguyên thuộc sở hữu và quản lý của Nhà nước.
Vậy, giờ đây, khi nói đến KTTN là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thì đó là cách tiếp cận từ tư duy chính sách, có nghĩa là chúng ta đang xác định điều chúng ta muốn đạt được. Tuy nhiên, điều quan trọng là nó hoàn toàn phù hợp với thực tế nếu dựa trên các con số thống kê về vai trò trong nền kinh tế và đóng góp vào tăng trưởng của thành phần này, xét theo nghĩa rộng bao gồm cả đầu tư nước ngoài (FDI), còn theo nghĩa hẹp là KTTN trong nước.
Chẳng hạn, trong bối cảnh độ mở của nền kinh tế với bên ngoài lên tới 200%, vào năm 2023, khi tỷ trọng xuất khẩu trong GDP là 87% thì trong đó, đóng góp về giá trị từ khu vực tư nhân trong nước đứng thứ hai sau khu vực FDI với các tỷ lệ tương ứng là 25% và 70%, trong khi khu vực quốc doanh đứng thứ ba với khoảng 5%. Tuy nhiên, trong tạo việc làm thì khu vực tư nhân lại đứng hàng đầu, chiếm tới trên 85%.
Có nghĩa rằng, từ quan điểm vĩ mô, khi coi KTTN là động lực của tăng trưởng thì rất cần quan tâm để thúc đẩy khu vực này, trước hết trong tương quan với khu vực FDI hơn là với khu vực quốc doanh.
Tại sao lại nói vậy ? Bởi dù là quốc doanh hay dân doanh thì cả hai đều thuộc về nền kinh tế quốc dân, hay kinh tế bản thể của người Việt; nó độc lập và khó có thể bị mất đi, trong khi FDI suy cho cùng chỉ là thành phần có tính vãng lai, cho dù ngay trong thời đại của hội nhập và toàn cầu hoá. Khi xảy ra chiến tranh hay đại dịch làm đứt gãy chuỗi cung ứng thì các bộ phận kinh tế phụ thuộc vào FDI hay xuất khẩu đã bị ảnh hưởng thế nào rồi.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh cần xác định phát triển KTTN là chiến lược, chính sách lâu dài của quốc gia.
Như vậy, càng suy luận theo hướng đó thì chúng ta càng thấy việc Đảng chủ trương nhấn mạnh trở lại vai trò của KTTN trong nước, sau biết bao nhiêu nghị quyết của nhiều năm về nó rồi, lại càng đúng.
- Có một thời vai trò của KTTN bị đánh giá rất thấp, rồi thì trăn trở “Đảng viên có được làm kinh tế tư nhân không” và nay KTTN được coi là động quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Luật sư nhìn nhận như thế nào về những thay đổi này?
- Nếu nhìn tổng quát, ở giai đoạn đầu của Đổi mới, sự thay đổi chủ yếu nằm ở thái độ chính trị đối với KTTN, coi nó là quan trọng, không thể thiếu hay thậm chí còn bình đẳng với kinh tế Nhà nước.
Tức là Nhà nước chưa thực sự có hỗ trợ gì mà chỉ không còn phân biệt bằng cách cho phép tồn tại, là cái mà chúng ta gọi là “cởi trói”, thì sức sống mãnh liệt của KTTN đã trỗi dậy rồi. Mà trước hết là trong nông nghiệp với điều kỳ diệu xảy ra là chỉ sau có mấy năm trả lại ruộng đất cho nông dân thì Việt Nam đã hết thiếu gạo lại còn nhanh chóng sản xuất dư thừa để xuất khẩu.
Sau đó suốt trong các thời kỳ tiếp theo, chúng ta đã tháo gỡ các rào cản và xây dựng khung thể chế và pháp luật bằng các đạo luật về công ty, doanh nghiệp và khuyến khích đầu tư. Kết quả là bên cạnh hàng triệu hộ kinh tế gia đình và các doanh nghiệp, công ty thì đã có các tập đoàn KTTN lớn với các tỷ phú USD người Việt.
Vậy, giờ đây với chủ trương và các nghị quyết mới về phát triển KTTN thì cái chất lượng mới được trông đợi sẽ là gì? Tôi chỉ xin nêu ra những điểm tâm đắc nhất.
Trước hết và tôi cho rằng có tính quan trọng hàng đầu, đó là lần đầu tiên người lãnh đạo cao nhất của đất nước đã thẳng thắn nêu ra thực trạng chúng ta đạt được và thậm chí được người bên ngoài tụng ca thực chất chưa phải là điều chúng ta mong muốn. Cái chúng ta thực sự cần là một nền kinh tế độc lập, tự chủ với trụ cột KTTN trong nước vững mạnh hơn là các doanh nghiệp FDI.
Chắc chắn nhà kinh tế nào cũng biết một nền kinh tế tăng trưởng mạnh nhờ xuất khẩu và đầu tư mà cả hai nguồn đó lại phụ thuộc vào FDI thì rất rủi ro. Chẳng hạn, nếu so sánh với Trung Quốc là nước đã đi trước trên con đường tương tự thì nền kinh tế của họ đã thoát khỏi cái bẫy này bằng việc khu vực FDI chỉ còn đóng góp 28% vào giá trị xuất khẩu, so với trên 70% của Việt Nam.
Điều thứ hai, nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước cũng nhận thấy và thẳng thắn chỉ ra rằng rào cản hay trở ngại cho KTTN phát triển không phải gì khác mà chính là các điểm nghẽn thể chế và pháp luật. Tôi thấy với riêng điều này thôi thì dường như đất nước đã lấy lại được cái hào khí đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, dám nói sự thật của Đại hội Đảng lần thứ VI lịch sử năm xưa rồi.
Tuy nhiên, cách tiếp cận tìm và tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế giờ đây còn đi xa hơn nữa bằng việc quy hoạch lại cả giang sơn để tạo đà vươn mình phát triển, song hành với nó là cuộc đại phẫu và tái cấu trúc bộ máy Nhà nước để quản trị quốc gia.
Điều thứ ba, trong phát triển kinh tế nói chung và phát triển KTTN nói riêng thì Đảng chủ trương lấy đổi mới sáng tạo và đột phát công nghệ làm động lực và đòn bẩy. Đây là cách bắt nhịp đúng với tinh thần của thời đại nhưng cũng là điều khó khăn nhất. Tại sao? Bởi chúng ta đã sao nhãng, thậm chí bỏ qua và lỡ nhịp.
Khác với Trung Quốc nơi các doanh nghiệp FDI muốn hưởng lợi từ thị trường trên 1 tỷ dân thì buộc phải chuyển giao công nghệ, mấy chục năm qua chúng ta đã bỏ qua điểm then chốt này mà thay vào đó chỉ chạy đua thu hút vốn và tạo việc làm đơn giản. Còn nói lỡ nhịp bởi chúng ta cũng đồng thời không quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ dân số vàng, để vừa có các địa chỉ thích hợp cho hấp thụ công nghệ được chuyển giao khi cần, vừa có lực lượng chủ thể dồi dào cho các quá trình tự đổi mới sáng tạo.
Cuối cùng, điều quan trọng hơn cả có lẽ là thay vì chỉ tập trung nghiên cứu để cho ra các đề án hay ban hành các nghị quyết đúng đắn và đẹp đẽ, giờ đây Đảng chủ trương vào hành động cụ thể bằng sự khẩn trương và táo bạo như “vừa chạy, vừa xếp hàng”, kiên quyết phá vỡ các thành trì của bảo thủ và trì trệ.

Cần gì để KTTN trở thành đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng?
- Thưa LS, trên các diễn đàn các nhà hoạch định chính sách đều nhấn mạnh đến việc phải tháo gỡ mọi rào cản, có những giải pháp hữu hiệu để KTTN thực sự trở thành động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vậy thực sự thì KTTN cần gì để phát triển và lớn mạnh?
- Việc đầu tiên theo tôi cần có sự phân biệt rất rõ giữa hai phạm trù chính sách và pháp luật. Tôi nói thế bởi cho đến nay đã có sự đồng nhất rằng cần phải pháp luật hoá mọi chính sách thì mới đủ điều kiện cần để triển khai.
Tuy nhiên, vì “cực đoan” như vậy, trong khi chính sách về bản chất rất cần tính linh hoạt, nên mỗi lần chính sách thay đổi thì lại phải sửa luật, dẫn đến sự bất ổn của môi trường vĩ mô và gây khó cho các doanh nghiệp. Hoặc ngược lại, có chính sách cần linh hoạt như khi Chính phủ thấy cần giảm thuế để cứu người dân, doanh nghiệp trong lúc khó khăn thì lại phải thông qua quy trình rất lâu và phức tạp để trình Quốc hội sửa luật. Đó chính là các bất cập về thể chế hiện nay.
Cho nên, phân định rành mạch có nghĩa rằng Quốc hội chỉ luật hoá những chính sách có tính chủ trương lớn, có tính ổn định và dài hạn, ít nhất 10 năm, còn các chính sách khác thì hãy trao quyền cho Chính phủ, thậm chí các Bộ ngành và địa phương thực thi thông qua các văn bản pháp quy gọi chung là văn bản hành pháp.
Về chủ trương lớn hay chính sách ổn định cần luật hoá, tôi cho rằng có hai vấn đề quan trọng. Một về phân bổ và giải phóng nguồn lực liên quan đến đất đai; và một liên quan đến bảo đảm an toàn trong thực thi các giao dịch dân sự - thương mại, đó là cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng.
Về đất đai, chúng ta đã nỗ lực sửa đổi nhiều lần Luật Đất đai, tuy nhiên, theo tôi vẫn còn hai khâu thiết thực và nhạy cảm là điểm nghẽn cần tháo gỡ.
Thứ nhất, cần bỏ hay hạn chế thấp nhất việc hành chính hoá mục đích sử dụng các khu đất đã giao cho người dân, doanh nghiệp sử dụng.
Việc hành chính hoá, tức mục đích sử dụng đất luôn luôn do Cơ quan chính quyền ấn định, đã tạo nên không chỉ rào cản và thủ tục hành chính phiền hà khi người sử dụng tiến hành các hoạt động nhằm tối đa hoá lợi ích hay hợp lý hoá việc sử dụng cả đất và tài sản trên đất theo nhu cầu thực tế của thị trường.
Điều này dẫn đến hệ quả là điểm nghẽn thứ hai, đó là các quyền về tài sản phát sinh từ quyền sử dụng đất của người dân không được tôn trọng, thậm chí bị vô hiệu hoá.
Trên thực tế, nhiều khi người dân vui mừng nhận được cái Sổ Đỏ trong tay nhưng khi đưa nó cùng với đất vào giao dịch kinh doanh thì lại thấy thất vọng, bởi lý do mục đích sử dụng và thời hạn sử dụng không tương thích với tính đa dạng và sự linh hoạt của thị trường.
Còn về cái gọi là “thực thi hợp đồng” hay cơ chế giải quyết tranh chấp. Cho tới nay, vì nhiều lý do, tuyệt đại đa số các tranh chấp trong kinh doanh vẫn do Toà án giải quyết. Hệ quả là hầu hết các vụ án bị kéo dài, phải xử đi, xử lại qua nhiều cấp và cuối cùng làm cho các cơ hội kinh doanh lẫn quan hệ đối tác bị mất mát hay tổn hại.
Trong khi đó, ở tất cả các nền kinh tế thị trường chuyên nghiệp lại có một thông lệ khác, đó là phát huy tối đa cơ chế trọng tài thương mại để giải quyết các tranh chấp này. Ở Việt Nam đã có nhiều trung tâm trọng tài như vậy, trong đó đứng hàng đầu là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp. Tuy nhiên con số các vụ việc được trọng tài giải quyết vẫn còn ít ỏi. Lý do không chỉ là thói quen tâm lý dựa vào Nhà nước mà quan trọng từ quá khứ mà còn là một điểm nghẽn về thể chế.
Đó là sự xem nhẹ vai trò và quyền hạn của các Trung tâm trọng tài trong tương quan với Toà án bởi các cơ quan, tổ chức có liên quan, bao gồm cả Cơ quan Nhà nước, đặc biệt trong phối hợp, hỗ trợ về thu thập thông tin, chứng cứ hay thậm chí cả khâu thi hành án. Ngay cả về phía Toà án cũng vẫn còn có việc giữ thói quen can thiệp vào nội dung khi xem xét lại các phán quyết trọng tài. Những điều này gián tiếp dẫn đến cơ chế thực thi hợp đồng trong kinh doanh kém hiệu lực và hiệu quả.
Tiếp đến là các chính sách cụ thể có tính ngắn hạn tuỳ mỗi thời điểm theo nhu cầu của các doanh nghiệp. Theo tôi đóng vai trò quan trọng nhất là sự hỗ trợ về nguồn lực, bao gồm cơ chế tiếp cận các quỹ tài chính và tín dụng đặc thù cho nghiên cứu đổi mới sáng tạo và trang bị công nghệ, đi kèm với cơ chế tiếp cận thông tin, tập trung vào thông tin khoa học – công nghệ và thông tin thị trường.
Trong khía cạnh này, tôi thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu phàn nàn rằng ở rất nhiều hội chợ quốc tế mà họ tham gia, các bạn hàng từ Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nước khác luôn có sự đồng hành và hỗ trợ từ phía Nhà nước, trong khi họ là doanh nghiệp Việt lại rất lẻ loi.
Các chính sách hỗ trợ khác cũng không kém phần quan trọng như cắt giảm các chi phí tài chính bắt buộc, nới lỏng nhất định về luật lao động và áp dụng hợp lý, linh hoạt các sắc thuế. Chẳng hạn, có vụ việc điển hình là trong khi gánh nặng chi phí xăng dầu của doanh nghiệp trong vận tải hàng hoá rất lớn mà tại sao Bộ Tài chính vẫn cứ kiên định coi đó là mặt hàng không thiết yếu để đánh thuế tiêu thụ đặc biệt ?
Tôi nghĩ đó là các hỗ trợ rất thiết thực mang động thái chính sách mà khu vực kinh tế tư nhân đòi hỏi.
Làm thế nào để doanh nghiệp nhỏ thành lớn
- Thưa luật sư các tập đoàn kinh tế tư nhân của Việt Nam nhìn chung là nhỏ về tầm vóc nếu so với những Samsung Group, SK Group (Hàn Quốc); Toyota Motor Corporation, Mitsubishi Group, SoftBank Group (Nhật Bản) và Huawei, Tencent Holdings (Trung Quốc). Vậy làm thế nào để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thành các doanh nghiệp lớn? Rồi thì Việt Nam sẽ có những “”Samsung”, “Huawei”, “Toyota”…?
- Mấy năm trước đã có một động thái chính sách, đó là doanh nghiệp hoá các hộ kinh tế cá thể hay gia đình, thể hiện một tâm thế mong muốn tất cả các doanh nghiệp trong nước phải lớn mạnh trở thành các tập đoàn kinh doanh tầm cỡ. Rất tiếc về bản chất, điều này trái với quy luật tự nhiên và đi ngược lại cả nguyên lý và thông lệ của thị trường.

Thị trường vốn là nơi tập hợp các sáng tạo của mọi người và mỗi người. Kinh tế thị trường phát triển đồng nghĩa với số lượng ngày càng nhiều các doanh nghiệp trên số dân, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) bao giờ cũng chiếm ưu thế, đóng vai trò như nền tảng hay hạ tầng của nền kinh tế bản thể.
Đành rằng các tập đoàn kinh tế lớn có thể đóng vai trò đầu tàu nhưng số lượng các đầu tàu đương nhiên phải ít hơn các toa tàu. Cho nên, quan điểm chính sách đúng đắn chính là tạo môi trường tự do cho mọi loại hình doanh nghiệp phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh và tự do lựa chọn và quyết định về cả phương thức và quy mô. Tức đơn giản là hãy để cho các doanh nghiệp nhỏ tự lớn mà không cần bất cứ biện pháp thúc đẩy gượng ép và nhân tạo nào.
Nhiều năm qua, có xu hướng tâm lý ngưỡng mộ mô hình phát triển của các Tập đoàn kinh doanh (Chaebol) của Hàn Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không để ý rằng các tập đoàn đó thực thi một sứ mệnh đặc biệt, đó là dẫn dắt quá trình tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm Hàn Quốc, trong khi ở thị trường trong nước thì các SME vẫn đóng vai trò chủ đạo.
Đương nhiên, nếu học tập mô hình Hàn Quốc thì Chính phủ cũng có thể hỗ trợ và trao một sứ mệnh tương tự cho các tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam. Còn nếu lựa chọn phương thức thành công của kinh tế Đài Loan (Trung Quốc), thì đó lại là sự cân bằng và hài hoà phát triển giữa cả doanh nghiệp lớn và các SEM.
Cũng là một điều rất đáng suy ngẫm, đó là năm 2023 khi thống kê danh sách 10 tỷ phú giàu nhất Trung Quốc và Việt Nam thì có sự khác biệt rất lớn. Đó là tất cả các tỷ phú Trung Quốc đều kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất, công nghệ và hàng tiêu dùng, trong khi có 9/10 tỷ phú Việt Nam đều thành công nhờ toàn bộ hoặc chiếm phần ưu thế từ bất động sản.
Có nghĩa là các tập đoàn hàng đầu của chúng ta vẫn chủ yếu khai thác tài nguyên đất nước thông qua tận dụng cơ chế, chính sách và chưa ra được biển lớn. Cho nên, có lẽ cũng đã đến lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề về tiếp cận chính sách trong phát triển đội ngũ doanh nghiệp Việt hay khu vực KTTN Việt Nam.
Chẳng hạn, khi nói về sức mạnh KTTN trong nước, tôi thấy dư luận đã ca ngợi các SME trong việc tạo ra tới trên 85% việc làm. Điều đó rất đúng nhưng thực ra đó chủ yếu là việc làm có thu nhập thấp và không ổn định, hay thiếu sử dụng tay nghề chuyên môn cao. Các SME vẫn luôn luôn quan trọng vì họ chủ yếu hướng đến thị trường trong nước, nhưng thị trường này chỉ phát triển được nếu gia tăng sức mua của người dân. Theo logic đó, các biện pháp chính sách cần tiến hành là giảm thuế thu nhập cá nhân và hạn chế sự tràn ngập của hàng hoá rẻ ngoại nhập.
Tôi nghĩ đã đến lúc phải bàn cách cứu nguy cho các SME trong nước rồi.

- Một trong những giải pháp để KTTN có động lực phát triển như Thủ tướng Phạm Minh chính yêu cầu là giao cho các tập đoàn kinh tế tư nhân thực hiện các dự án lớn. Và trên thực thế thì Chính phủ đang thực hiện chỉ đạo đó. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
- Xin thưa, cơ chế thực hiện điều này rất đơn giản bởi đó là hợp đồng và các thoả thuận bình đẳng giữa các bên. Ở rất nhiều nước người ta đã luôn làm như vậy, tức các đơn hàng về cung ứng hàng hoá hay dịch vụ công được giao cho các nhà thầu có năng lực nhất mà không phân biệt công hay tư thực hiện.
Điển hình là Mỹ, nơi dường như hầu hết các nhu cầu của khu vực công, bao gồm cả các lĩnh vực nhạy cảm như quốc phòng hay chinh phục không gian, đều trao cho các tập đoàn tư nhân đảm nhiệm thông qua cơ chế đặt hàng và giao thầu.
Về lợi thế, có hai điểm, đó là sẽ lựa chọn được nhà thầu, nhà cung ứng có chất lượng phù hợp và năng lực tốt nhất. Tác động gián tiếp còn là qua đó thúc đẩy và tạo các điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Đây cũng là bài học của Hàn Quốc và bởi thế nước này mới có các tập đoàn lớn mạnh toàn cầu như hiện nay.
Còn về rủi ro thì theo tôi có lẽ chỉ có một, đó là nguy cơ phát sinh tham nhũng thông qua các quan hệ xin - cho và sự móc ngoặc theo kiểu “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Trên thực tế ngay cả ở các nước phát triển cũng không hoàn toàn tránh được rủi ro này. Do đó, một khi chủ trương triển khai cơ chế này thì đồng thời rất cần hoàn thiện khung khổ pháp luật và các thiết chế phòng chống tham nhũng.
Đổi mới sáng tạo để làm khác người
- Như luật sư nói ở trên thì khu vực tư nhân thường có lợi thế lớn hơn trong đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ so với khu vực Nhà nước. Ông có thể lý giải rõ hơn không?
- Dường như nhiều người đã đặt câu hỏi như vậy nhưng câu trả lời của tôi lại theo cách tiếp cận khác. Mọi sự phát triển đều dựa trên các điều kiện chủ quan và khách quan.
Về chủ quan, đổi mới sáng tạo của một con người luôn luôn cần ý chí, không gian tự do và xuất phát từ cảm hứng, động lực tự thân. Về khía cạnh này, khu vực tư nhân đương nhiên có lợi thế hơn khu vực Nhà nước.
Tuy nhiên, về phương diện khách quan, khi nói tới đổi mới sáng tạo về khoa học và công nghệ thì nó gắn với các nguồn lực có tính tiên quyết hay phụ trợ.
Chẳng hạn, muốn sở hữu công nghệ nguồn thì chúng ta phải có các nền tảng về khoa học cơ bản, tức các cơ quan nghiên cứu vốn phải được xây dựng rất công phu và tốn kém. Việc này chỉ có Nhà nước mới làm được.
Thậm chí, ngay cả đổi mới sáng tạo từ nền tảng công nghệ ban đầu được chuyển giao từ nước ngoài thì cũng cần các công cụ pháp luật và phương tiện tài chính để thực hiện.
Riêng về ứng dụng và triển khai các công nghệ mới, ngoài các yếu tố cần như sự nhanh nhạy và linh hoạt trong nắm bắt nhu cầu thị trường mà khu vực tư nhân có lợi thế, thì cũng rất cần các khung khổ pháp lý và cơ chế hỗ trợ để triển khai, nhất là trong giai đoạn thử nghiệm trước khi thương mại hoá.
Như vậy thì câu trả lời của tôi là mỗi khu vực đều có thế mạnh riêng, cho nên để tạo lập được một nền kinh tế phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo, chúng ta buộc phải có sự liên kết, phối hợp của cả hai khu vực công – tư. Trong đó, nếu lấy mô hình của các quốc gia Đông Á để học tập thì còn rất cần vai trò hướng dẫn, đầu tàu hay hỗ trợ của một “Nhà nước kiến tạo phát triển”.
- Xin hỏi luật sư câu cuối cùng, vai trò của chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển (R&D) trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân là gì?
- Chuyển đổi số là nhu cầu tự nhiên và một quá trình tất yếu phù hợp với đặc điểm của thời đại mới.
Trong khu vực hành chính công, Nhà nước có thể chủ động tiến hành quá trình này theo các mục tiêu chính sách nhất định, chẳng hạn như đặt ra các chỉ tiêu bắt buộc và đồng đều cho các cơ quan, ban ngành và các địa phương.
Tuy nhiên, đối với khu vực tư nhân, không thể và cũng không cần thiết phải làm như vậy bởi tính đa dạng của cả điều kiện vật chất, mục tiêu phát triển và nhu cầu thực tế.
Vấn đề ở chỗ từ động thái chính sách, xác định khâu nào Nhà nước cần can thiệp, hỗ trợ và cả những lệch lạc nào trong nhận thức và hành động cần tránh trong quá trình chuyển đổi số.
Chẳng hạn, về phía Nhà nước, việc tạo lập khung khổ pháp lý để bảo vệ sự an toàn dữ liệu và các quyền riêng tư, quyền sở hữu trí tuệ là rất cần thiết. Nhà nước cũng cần hỗ trợ về giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về kinh tế số, quản trị dữ liệu và chống các hành vi vi phạm và phá hoại có liên quan.
Còn về phía các doanh nghiệp, tôi cho rằng rất cần có cách tiếp cận thận trọng, bài bản, có hệ thống về cả chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển (R&D). Tuyệt đối không nên chạy đua theo phong trào để tránh sự lãng phí các nguồn lực không cần thiết.
Còn về giải bài toán cạnh tranh một cách thực tế đối với các doanh nghiệp Việt trong lúc này, tôi vẫn có quan điểm cho rằng đó là đổi mới sáng tạo để làm khác người hơn là cố gắng để làm được hơn người.
- Xin cám ơn luật sư!
Bình luận của bạn đọc
Bình luận bằng tài khoản VietTimes
Bình luận bằng tài khoản mạng xã hội
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu